1. Kỹ năng:
1.1. Kỹ năng tham
mưu, lãnh đạo
- Tham mưu với Đoàn cấp trên
những vấn đề liên quan đến công tác thanh niên, những vấn đề phát sinh cần sự
hỗ trợ giúp đỡ.
- Lãnh đạo trong công tác,
định hướng hoạt động của chi đoàn.- Lãnh đạo về mặt tư tưởng,
nắm bắt tư tưởng đoàn viên thanh niên, tổ chức sinh hoạt tư tưởng.
1.2. Kỹ năng điều hành,
quản lý
- Điều hành sinh hoạt chi
đoàn, hoạt động của Ban chấp hành, phân công nhiệm vụ cho ủy viên Ban chấp
hành.
- Quản lý cán bộ chi đoàn về
công việc và tư tưởng.
- Quản lý hồ sơ đoàn viên, cán
bộ, sổ chi đoàn, các văn bản quyết định.
1.3. Kỹ năng tổ chức hoạt
động
- Biết thiết kế nội dung
chương trình một hoạt động, đợt hoạt động, tổ chức phát động một phong trào.
- Biết làm công tác đoàn vụ,
các hội nghị, buổi lễ kết nạp, trưởng thành Đoàn, đại hội, hội nghị chi đoàn.
- Biết phân công đoàn viên phụ
trách các công việc trong chương trình hoạt động
- Tổ chức trò chơi, múa, hát,
sinh hoạt tập thể, kể chuyện vui, đọc, ngâm thơ .
- Thiết kế một tiết mục sân
khấu hóa, tiểu phẩm.
1.4. Kỹ năng soạn thảo văn
bản, trình bày, triển khai một vấn đề
- Soạn thảo các loại văn bản
của chi đoàn như: chương trình, kế hoạch, báo cáo, kiểm điểm, biên bản.
- Biết tổ chức triển khai
trình bày một nội dung, một chủ trương, quan điểm, nghị quyết của Đoàn, Đảng.
1.5. Kỹ năng ứng xử, xử lý
các mối quan hệ
- Xử lý các tình huống trong
công tác Đoàn.
- Xử lý các tình huống phát
sinh trong quan hệ cá nhân của đoàn viên, thanh niên.
- Xác định vai trò vị trí của
chi đoàn, Bí thư chi đoàn trong mối quan hệ với Đoàn cấp trên, với ban cán sự
lớp và các tổ chức đoàn thể khác.
2. Kỹ năng trình bày
của người cán bộ Đoàn
Trong rất nhiều kỹ năng cần
thiết đối với người cán bộ Đoàn, một kỹ năng không thể thiếu được đó là kỹ năng
trình bày. Để trình bày tốt một vấn đề đặt ra, người cán bộ Đoàn cần có các kỹ
năng cụ thể sau:
+ Lắng nghe chăm chú.
+ Diễn đạt đơn giản.
+ Định nghĩa trong sáng, rõ
ràng.
+ Quan tâm đến phản ứng của
người nghe.
+ Gây ảnh hưởng.
+ Giải quyết thắc mắc.
Người cán bộ Đoàn là thủ lĩnh
của Thanh niên, để làm tốt nhiệm vụ đó họ phải là người có tâm huyết với các
hoạt động chính trị xã hội. Nắm vững phương pháp luận khoa học, có kiến thức xã
hội đủ rộng. Thông thạo nghiệp vụ Đoàn - Hội - Đội và có kỹ năng công tác thanh
thiếu niên.
Chúng ta đều biết, nghe thật
tốt những ý người khác đang nói với mình thì mình mới có thể nói chuyện tốt
được. Có ba yếu tố trong việc lắng nghe chăm chú đó là nghe - hiểu và vận dụng.
Để hiểu được chúng ta phải có một số kiến thức hoặc kinh nghiệm để có thể liên
hệ với những điều mà mình đang nghe. Nếu chúng ta có thể thiết lập được các mối
liên hệ thì sự am hiểu của chúng ta sẽ phát triển và có được thông tin. Khi có
được thông tin chúng ta nên vận dụng nó, có nghĩa là đặt thông tin vào trong từ
ngữ với mối liên hệ với những điều đã biết. Điều đó thể hiện mức độ của sự am
hiểu về thông tin mới.
Diễn đạt thông tin đơn giản có
nghĩa sử dụng ngôn ngữ thông dụng bằng cách xây dựng những câu mang một thông
điệp đơn giản. Các từ và câu càng đơn giản bao nhiêu thì người nghe càng dễ
hiểu và dễ nắm bắt bấy nhiêu.
Định nghĩa trong sáng, rõ ràng
có nghĩa là nếu trong khi đang nói chúng ta có thể làm rõ ý nêu ra thì rất có
ích cho những người nghe. Có thể làm rõ những điều ta đang nói bằng cách đưa ra
những ví dụ trực quan để minh họa.
Trong khi trình bày hãy quan
tâm đến phản ứng của người nghe: Nếu người trình bày quan tâm đến phản ứng của
người nghe bằng những biểu hiện cụ thể của họ như: sự mỉm cười, động tác gật
đầu, vẻ mệt mỏi... Thì bản thân người trình bày có thể điều chỉnh những điều họ
đang nói để đáp ứng lại các phản ứng của người nghe một cách tích cực hơn.
Người trình bày có thể dừng lại và bình luận về một phản ứng của người nghe, để
người nghe được giải thích một cách rõ ràng hơn. Đây là cách tiếp cận tốt hơn
nhiều so với việc bỏ qua những phản ứng kể cả với phản ứng tiêu cực của
người nghe.
Gây ảnh hưởng: để mọi người
chăm chú lắng nghe là một việc khó, nếu người trình bày không có sự tác động
thêm vào để thu hút sự chú ý thì người nghe chỉ có thể tập trung lắng nghe
trong vòng vài phút đầu. Để gây ảnh hưởng, cứ khoảng 05 phút một người trình
bày nên đưa ra một câu nói tác động đến người nghe là điều rất quan trọng.
Người nghe sẽ chăm chú lắng nghe nếu người trình bày nói với tốc độ khoảng 100
từ/phút, nếu nhanh hơn tốc độ đó họ sẽ khó lắng nghe, còn chậm hơn thì người
nghe sẽ cảm thấy sốt ruột. Với tốc độ trình bày như vậy, cho phép người trình
bày có khoảng thời gian nhấn mạnh, ngắt quãng và tận dụng được khoảng thời gian
im lặng. Giá trị của điều chúng ta nói ra là thông điệp gửi tới người nghe, giá
trị của chúng ta nói là người nghe lắng nghe chăm chú và hiểu được thông điệp
đó.
Giải quyết thắc mắc: những
người nghe có thể đặt câu hỏi với người trình bày, những câu hỏi này chủ yếu để
người nghe khẳng định lại những hiểu biết của mình. Để giải đáp, người trình
bày cần đưa ra thêm nhiều thông tin cụ thể, tránh nhắc lại những điều đã nói.
Điều quan trọng là nên giải quyết thắc mắc từ quan điểm thực tế của mỗi cá nhân.
Hiểu được kỹ năng trình bày và
biết vận dụng nó một cách thường xuyên giúp người cán bộ Đoàn hoàn thành tốt
hơn công việc của mình, đặc biệt với vai trò là người thủ lĩnh của Thanh niên.
3. Kỹ năng nói trước
công chúng
3.1. Đặt vấn đề
- Trong thời đại bùng nổ thông
tin hiện nay, cùng với các loại hình truyền thông khác, 'kỹ năng nói' ngày càng
đóng vai trò tích cực. Muốn thuyết phục các bạn trẻ và công chúng nói chung,
muốn truyền đạt các quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước, chủ
trương công tác của Đoàn, Hội, mỗi cán bộ Đoàn trường học bên cạnh việc biết
viết và biết tổ chức các hoạt động, cần phải biết nói, hơn nữa cần biết nói
hay, nói giỏi.
- Nói trước công chúng là một
nghệ thuật có những quy tắc riêng. Biết tuân thủ những quy tắc ấy và kiên trì
tập luyện thì ai cũng có thể thu được kết quả mong muốn.
- Nói trước công chúng có
nhiều hình thức khác nhau:
+ Phát biểu ý kiến ngắn trước
tập thể.
+ Tranh luận, thảo luận.
+ Tránh bày nội dung của một
văn kiện, một chủ trương công tác.
+ Nói chuyện thời sự, nói
chuyện chuyên đề.
+ Giảng bài.
Tuy nhiên, về mục đích thì lại
thống nhất. Ai cũng muốn làm cho người khác hiểu ý mình, đồng ý tán thành ý
kiến của mình, chăm chú lắng nghe và khen ngợi mình về sự sâu sắc của nội dung,
về tài thuyết khách, tài hùng biện, khả năng dí dỏm, tính trí tuệ, tính lôgíc,
hệ thống của bài nói, bài phát biểu...
Dưới đây là một hệ thống các
quy tắc, đòi hỏi mỗi cán bộ Đoàn, Hội, muốn thành công, muốn nâng cao tay nghề
trong việc thu phục các bạn trẻ thông qua ngôn ngữ nói, cần phải rèn luyện và
tuân thủ.
3.2. Những quy tắc mang
tính kỹ năng
Quy tắc 1: Rèn luyện sự
tự tin vào chính bản thân mình
Tự mình phán xét hay nhờ bạn
thân nhận xét về khả năng của bạn.
Tăng cường quan hệ với những
người tin bạn, tin ở sự thành công, tránh xa những kẻ hoài nghi, rèm pha.
+ Tập nói thường xuyên,
lúc đầu nói ít, nói ngắn, sau quen dần sẽ nói nhiều hơn trong khoảng thời gian
dài hơn.
+ Nhớ kỹ câu này: 'Tập
đi rồi hãy tập chạy'. Thành công được một vài lần, sau rất dễ thành công.
+ Tìm thêm động lực bằng
sự khích lệ của bạn bè.
+ Luôn luôn yêu cái
thật, cái tốt, cái đẹp.
+ Nhớ rằng người nghe
vốn sẵn có thiện cảm với diễn giả.
+ Đừng để ý nhiều đến dư
luận. Biết dư luận để sửa các khuyết tật của mình là cần thiết, song từ đó lại
kém tự tin, rụt rè thì có hại. Nên hiểu rằng: dư luận cũng có khi sai, chân lý
không phải bao giờ cũng thuộc về số đông.
Quy tắc 2: Cần tuân thủ
các bước khi chuẩn bị bài nói (diễn văn, bài nói chuyện, chuyên đề...)
- Chọn đề tài mà bạn
thấy thích thú và muốn nói trước công chúng.
- Luôn nhớ tính nhất
quán của vấn đề định trình bày, tìm mọi cách để đạt tới mục tiêu chính của đề
tài.
- Lập đề cương sơ bộ,
bao gồm những ý chính cần nói.
- Tìm ý phụ và các tư
liệu bằng cách trả lời 6 câu hỏi sau đây: Ai? Cái gì? Ở đâu? Bằng cách nào? Ra
sao? Khi nào?.
- Ghi chép ngay những ý
mới xuất hiện trong đầu bạn
- Sắp xếp các ý một cách
rõ ràng, rành mạch.
- Lựa chọn nhiều chứng
cớ, thí dụ để minh họa cho sinh động.
- Phải biết tự hạn chế.
Khi nào bỏ đi 5, 6 ý, chỉ giữ lại 3, 4 ý mà không thấy tiếc thì bài nói của bạn
mới có hy vọng hấp dẫn người nghe.
- Sắp sếp các ý phụ theo
bố cục của các ý chính và có mối liên hệ tự nhiên với nhau.
Quy tắc 3: Rèn luyện trí
nhớ
- Soạn xong đề cương bài
nói chuyện, bạn cần nhẩm lại, tốt nhất là trong khung cảnh thiên nhiên (vườn
hoa, công viên, bờ hồ...).
- Lặp đi lặp lại bài
diễn văn trong khi đợi xe, hay đi dạo chơi... có thể nói thành tiếng trong
phòng riêng.
- Cố gắng không viết lại
toàn bộ bài diễn văn, nếu phải viết thì không nên học thuộc lòng. Chỉ nên ghi
lại những ý dễ quên qua các lần lặp lại.
- Muốn nhớ được lâu cần
phải:
+ Tập chú ý nhận xét
tinh tế, sâu sắc.
+ Tìm các ý độc đáo,
khác thường.
+ Lật đi lật lại vấn đề.
+ Công thức hóa các ý.
Ví dụ: Công thức đưa đất
nước tiến lên ở các nước phát triển, dựa vào tiềm năng của lớp trẻ: 3 chữ I
(Imitate, Initiative, Innovation) nghĩa là bắt chước, cải tiến, cải tổ.
Công thức 5 chữ M do các
nhà giáo dục học thế giới tổng kết trong việc định hướng giáo dục thanh thiếu
nhi (Man, Machine, Manager, Money, Marketing) nghĩa là trong thời đại ngày nay
cần tạo điều kiện để lớp trẻ tự khẳng định mình, tiếp cận với khoa học kỹ thuật
hiện đại, trở thành người tự tổ chức cuộc sống của chính mình, biết kiếm tiền
một cách chính đáng và dùng tiền hợp lý, biết tiếp cận với thị trường, kinh tế,
chính trị, văn hóa, xã hội.
Quy tắc 4: Vạn sự khởi
đầu nan
Lời mở đầu là hết sức
quan trọng.
- Bạn phải làm cho người
nghe chú ý tới bạn, có thiện cảm với bạn ngay từ đầu buổi nói chuyện qua phong
thái tự tin, cởi mở và chân thành. Hết sức tránh thái độ trịnh trọng giả tạo và
suồng sã quá mức.
- Những điều nên tránh:
+ Nếu bạn không có tài
khôi hài thì đừng cố làm cho người nghe cười, bởi như vậy bạn sẽ thất bại.
+ Đừng dùng lời lẽ sáo
rỗng để vào đề.
+ Không mở đầu bằng một
lời xin lỗi giả dối...
- Những phương pháp vào
đề cụ thể nên áp dụng:
+ Mở đầu bằng một câu
chuyện (chuyện cổ tích, chuyện đời thường...)
+ Dẫn lời một danh nhân
nào đó, dẫn tục ngữ, ca dao...
+ Đặt một số câu hỏi
xoay quanh đề tài.
+ Gợi tính tò mò của
người nghe.
+ Làm một điệu bộ gì
khác thường hoặc trình bày sự thực dưới một hình thức mới mẻ.
+ Tự giới thiệu mình đối
với những người nghe chưa quen biết.
Quy tắc 5: 'Diễn giảng
là làm sống lại một đề tài'
- Lời lẽ phải rõ ràng,
sáng ý, có mối liên hệ tự nhiên giữa các ý. Đừng lý thuyết nhiều quá.
- Có nhiều phép lập luận
(quy nạp, diễn tịch, phân tích - tổng hợp, so sánh...). Tuy nhiên, bạn nên
tránh:
+ Chưa định nghĩa rõ
ràng đã lập luận.
+ Định nghĩa sai.
+ Lấy một trường hợp cá
biệt để khái quát thành cái phổ biến
+ Nhầm lẫn nguyên nhân
với kết quả, nguyên nhân với điều kiện, nguyên nhân với nguyên cớ, khả năng và
hiện thức, bản chất với hiện tượng, nội dung với hình thức, cái tất nhiên với
cái ngẫu nhiên...
+ Vướng vào vòng luẩn
quẩn, tự mâu thuẫn với chính mình.
- Có nhiều cách phản bác
ý kiến của người khác để bênh vực cho quan niệm của mình, bạn cần lưu ý:
+ Tìm ra mâu thuẫn trong
cách lập luận của họ.
+ Đưa ra những tài liệu
thực tiễn để chứng minh tính sai lầm trong quan niệm của họ (vì thực tiễn là
tiêu chuẩn của chân lý), hoặc chỉ ra tính không đáng tin của những tư liệu mà
họ dùng.
+ Chỉ ra tính chủ quan,
phiến diện trong quan niệm của họ. Nếu đó là những thành kiến, định kiến thì cách
tốt nhất là sử dụng các 'phản ví dụ' để bác bỏ
+ Đối với những lời lẽ
mỉa mai, châm chọc thì tốt nhất là nên làm ngơ và tiếp tục trình bày vấn đề của
mình.
Quy tắc 6: Không nên coi
thường đoạn kết
- Nên viết trước và học
thuộc lòng 2, 3 lối kết để tuỳ cảm xúc tâm lý của người nghe mà dùng cho thích
hợp
- Những lối kết thông
dụng nên áp dụng:
+ Tóm tắt ý trong bài
nói chuyện, gọn nhưng không thiếu.
+ Kết thông qua những
lời khuyên mang tính tâm lý, bằng triết lý của cuộc sống đời thường, dễ gây ấn
tượng.
+ Khuyến khích người
nghe hành động.
+ Đặt một vài câu hỏi,
nêu một số vấn đề để người nghe tiếp tục suy nghĩ, tự tìm câu trả lời.
Quy tắc 7: Ý tứ sáng rõ,
lời lẽ khúc chiết là tiền đề của thành công
- Muốn cho ý tứ được rõ
ràng, sáng rõ bạn phải
+ Thấu hiểu vấn đề.
+ Không bao giờ xa đề.
+ Biết tự kiềm chế, chỉ
nói những điều quan trọng nhất.
+ Không lý thuyết viển
vông, nên đưa nhiều ví dụ, nhiều chứng cớ để minh họa.
+ Tránh thói mơ hồ.
- Muốn cho lời lẽ được
khúc chiết, bạn phải:
+ Không nên dùng những
câu dài quá.
+ Không dùng những điển
tích mà nhiều người chưa quen.
+ Tránh dùng danh từ
chuyên môn quá hẹp và những từ mới chưa thông dụng. Nếu bắt buộc phải dùng các
loại từ trên thì nên giảng cho người nghe hiểu nghĩa.
+ Giản dị và tự nhiên
trong lời nói (không cầu kỳ, hoa mỹ, song cũng không được thô lỗ).
+ Không dùng những câu
tối nghĩ như: 'Tôi cần nó hơn anh'.
- Chỉ khi nào người nghe
'trông thấy' được những ý của bạn thì mới hiểu rõ được ý ấy. Muốn vậy bạn phải:
+ Thường xuyên so sánh,
đối chiếu, ví von.
+ Dùng nhiều hình ảnh.
+ Dùng sơ đồ, bảng thống
kê, hình vẽ (nếu có thể).
- Lựa chọn cách lập luận
và diễn giải phù hợp với trình độ hiểu biết của số đông người nghe.
- Nếu có thể thì tập
trình bày trước cho các bạn thân, đồng nghiệp để họ góp ý cho những câu, những
đoạn cần sửa
Quy tắc 8: Khắc sâu
những ấn tượng khó quên vào đầu óc, tâm trí người nghe
Trình bày rõ ràng, sáng
rõ một chân lý chưa đủ, mà phải làm cho bài nói chuyện của mình thực sự thú vị,
hấp dẫn, kích thích người nghe. Muốn vậy, bạn nên theo các cách dưới đây:
- Kể một chuyện lạ (hay
chuyện vui) có liên hệ với đời sống hàng ngày của người nghe, gắn chặt với đề
tài
- Dùng càng nhiều hình
ảnh càng tốt.
- Làm cho các con số trở
nên 'biết nói', đổi những con số trở thành những vật có thể thấy được.
- Khéo dẫn lời các danh
nhân (đưa vào những chỗ thích hợp để có thêm 'sức mạnh' cho lập luận).
- Tuỳ từng trường hợp mà
áp dụng: khen trước chê sau (nếu muốn chê) và chê trước khen sau (nếu muốn
khen). Có khi chê để mà khen và khen để mà chê.
- Khi cần thiết có thể
dùng cách nói cực đoan hóa, tuyệt đối hóa.
- Để tập trung sự chú ý,
có thể dùng cách nói lửng (ở những chỗ mà dường như độc giả có thể đoán được ý
tiếp theo).
Tóm lại, sự bất thường
luôn luôn được người nghe chú ý tới. Tạo ra tình huống bình thường nhưng nêu ra
cách giải quyết bất thường cũng là cách thu phục nhân tâm tốt nhất.
Quy tắc 9: Nắm vững tâm
lý của người khác
Bạn phải chú ý đến đặc
điểm tâm lý của từng đối tượng. Thanh niên, học sinh, sinh viên đầy mơ mộng,
sách vở nhưng cũng rất thực tế, năng động, ham hiểu biết, muốn tự khẳng định
mình, không thích trịnh trọng, dài dòng. Vì vậy, bài nói chuyện cần dí dỏm, súc
tích, đi sâu được vào đời sống của họ (ở ký túc xá, ở lớp học...).
Quy tắc 10: Hướng người
nghe tới hành động thực tế
- Mục đích cao nhất
trong cuộc sống con người không phải là sự hiểu biết mà là sự hành động.
- Muốn vậy phải làm cho
người nghe hiểu bạn và tin bạn. Bạn cần:
+ Trước hết cần hướng
người nghe tới cái Thật, cái Tốt, cái Đẹp; căm ghét cái Giả, cái Xấu, cái Ác.
+ Đừng để cho người nghe
phải mất thì giờ vì những lý thuyết viển vông, xa rời với thực tế.
+ Bản thân mình phải
thực sự tin vào những điều mình sắp nói cho người khác. Lòng thành thật là khởi
điểm của niềm tin.
+ Tự đặt mình vào vị trí
của người nghe.
+ Khiêm tốn - là đức
tính quan trọng nhất, từ đó có thể thu phục người nghe.
- Là học sinh, sinh viên
ai cũng ước mơ, khao khát phấn đấu để học tập và rèn luyện tốt, ham học hỏi
những điều mới lạ và quan tâm tới tương lai sau này. Trong bài nói chuyện của
mình, bạn nên chỉ cho người nghe thấy nếu hành động đúng thì sẽ có được các lợi
ích đó.
Quy tắc 11: Phải làm cho
vốn từ của bạn thật phong phú, cần thuộc nhiều danh ngôn và thành ngữ, tục ngữ,
đến mức khi cần ta có thể huy động được ngay
- Sưu tầm các từ đồng
nghĩa, phản nghĩa.
- Sưu tầm các danh ngôn
cho từng lĩnh vực.
- Chọn lọc các thành
ngữ, tục ngữ ngắn gọn (không thầy đố mày làm nên, học thầy không tày học bạn,
đi một ngày đàng học một sàng khôn...).
- Học ở các diễn giả có
tài, các nhà hùng biện nổi tiếng.
- Hết sức tránh các lỗi
thông thường: nói ngọng, nói lắp, nói những câu vô nghĩa, không hiểu rõ nghĩa
của từ cũng dùng, thêm không đúng chỗ, hành văn theo tư duy ngôn ngữ nước
ngoài, thêm những trợ từ vào đầu mỗi câu (tức là, nói chung, ví dụ chẳng hạn
như là...).
Quy tắc 12: Những việc
cần làm khi bước lên diễn đàn
- Mỉm cười, bước khoan
thai, đầu hơi ngửng lên, ngực hướng về phía trước.
- Nếu có hồi hộp thì thở
mạnh, đưa mắt tìm người quen trong phòng
- Tránh nói đều đều, cần
lúc mạnh, lúc nhẹ, lúc nhanh, lúc chậm. Nghỉ một chút, trước và sau các ý quan
trọng
- Phải nhìn thẳng vào
người nghe để nói với họ, tránh nhìn xuống nền, nhìn lên trần nhà hoặc nhìn ra
ngoài cửa..
- Khi thấy có người buồn
ngủ, bạn phải nói to hơn, hăng hái hơn và nên xen vào một vài chuyện vui.
- Điệu bộ phải tự nhiên,
không nên bắt chước ai. Vấn đề điệu bộ thế nào là tuỳ thuộc vào cảm xúc của bạn
(vui, buồn, giận...).
(ST)
Đang truy cập: 282
Hôm nay: 1,192
Tổng lượt truy cập: 838,219