Trước tình hình thế giới, khu vực, trong nước có nhiều chuyển
biến thuận lợi, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc quyết định về nước trực tiếp chỉ đạo
cách mạng. Dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo kịp thời, sáng suốt của Người và Đảng ta,
cách mạng Việt nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, lập nên kỳ tích Cách
mạng Tháng Tám thành công, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa.
Trong hành trình tìm đường cứu nước,
giải phóng dân tộc, tháng 7/1920, Nguyễn Ái Quốc đọc được bản Luận cương của
Lênin về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa trên Báo Nhân đạo (L'Humanité) của
Pháp. Bản Luận cương là cơ sở, nền tảng, ngọn đuốc soi sáng con đường giải
phóng của các dân tộc bị áp bức, đồng thời đáp ứng được mong mỏi thiết tha của
Người đối với đất nước là độc lập cho dân tộc, tự do cho đồng bào. Người tìm
thấy phương hướng, đường lối cơ bản cho phong trào cách mạng giải phóng dân tộc
ở Bản Luận cương, đó là: kết hợp đấu tranh giai cấp với đấu tranh dân tộc, độc
lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội, tinh thần yêu nước chân chính với chủ nghĩa
quốc tế vô sản cao cả. Từ đó, Nguyễn Ái Quốc đã tập trung mọi nỗ lực truyền bá
chủ nghĩa Mác - Lênin vào phong trào công nhân và phong trào yêu nước ở Việt
Nam, chuẩn bị những tiền đề về chính trị, tư tưởng và tổ chức cho sự ra đời của
một đảng cách mạng tiền phong của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của
cả dân tộc - Đảng Cộng sản Việt Nam. Ðặc biệt, Người luôn quan tâm, chăm lo cho
phong trào đấu tranh của quần chúng và không ngừng xúc tiến tìm đường về Tổ
quốc để trực tiếp lãnh đạo cách mạng, giải phóng dân tộc.
Tháng 9/1939, Chiến tranh thế giới lần thứ Hai bùng nổ, phát xít
Nhật ráo riết chuẩn bị tiến công Đông Dương và Đông Nam Á. Tại Việt Nam, thực
dân Pháp mở rộng cuộc khủng bố trắng, phong trào cách mạng gặp muôn vàn khó
khăn, Đảng ta buộc phải rút vào hoạt động bí mật. Hai tháng sau khi Chiến tranh
thế giới nổ ra, Hội nghị lần thứ 6 Trung ương Đảng tiến hành tại Gia Định
(06/11/1939) nhận định: Con đường sống duy nhất của các dân tộc Đông Dương là
đánh đổ thực dân Pháp, giải phóng dân tộc, giành lấy quyền độc lập. Hội nghị
quyết định chuyển hướng chỉ đạo chiến lược và phương pháp đấu tranh đối với
cách mạng Việt Nam, tập trung mọi lực lượng của dân tộc vào nhiệm vụ chống
chiến tranh đế quốc, chống phát xít xâm lược, đánh đổ thực dân Pháp và bè lũ
tay sai. Hội nghị cũng chủ trương thành lập Mặt trận thống nhất dân tộc thay
cho Mặt trận dân chủ không còn phù hợp, giương cao ngọn cờ giải phóng dân tộc,
chuẩn bị tiến tới khởi nghĩa vũ trang. Như vậy, ngay từ cuối năm 1939, Đảng ta
nhận thấy sự cần thiết phải thay đổi phương pháp đấu tranh cách mạng và cần
phải tổ chức khởi nghĩa vũ trang.
Ngày 22/6/1940, Chính phủ tư sản Pháp đầu hàng vô điều kiện quân
Đức, thực dân Pháp ở Đông Dương hoang mang, bối rối. Biết tin quân Pháp bại
trận, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc gấp rút họp Ban cán sự của Đảng ở nước ngoài đánh
giá tình hình và xác định nhiệm vụ cho phong trào cách mạng trong nước, Người
nhận định: “Việc Pháp bại trận là cơ hội thuận lợi cho cách mạng Việt Nam. Ta
phải tìm mọi cách về nước ngay để tranh thủ thời cơ. Chậm trễ là có tội với
cách mạng”1. Người căn dặn đội ngũ
cán bộ phải vận động nhân dân, khi họ đã giác ngộ cao, lúc đó ắt sẽ có vũ khí.
Mặc dù đang hoạt động tại Trung Quốc, nhưng Người đã tính đến việc xây dựng khu
căn cứ làm chỗ dựa chỉ đạo và phát triển phong trào cách mạng. Thực hiện ý định
này, Người chỉ thị cho đồng chí Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp không đi học
chính trị và quân sự tại Diên An, đồng chí Lê Thiết Hùng lập tức rời khỏi hàng
ngũ của Quốc dân đảng Trung Hoa về nước chuẩn bị lực lượng, đón thời cơ, giành
chính quyền.
Khi phát xít Nhật đánh chiếm Lạng Sơn (23/9/1940), thực dân Pháp
“quỳ gối” dâng Việt Nam cho Nhật, nhân dân ta một cổ hai tròng, đời sống gặp
muôn vàn khó khăn, vất vả. Dưới ách thống trị của thực dân Pháp và phát xít
Nhật, nhân dân ở khắp nơi đã nổi dậy đấu tranh với khí thế mạnh mẽ, quy mô rộng
lớn chưa từng có, điển hình là Khởi nghĩa Bắc Sơn. Tuy các cuộc khởi nghĩa
không giành được kết quả như mong muốn, nhưng đã thể hiện tinh thần quật cường,
bất khuất của dân tộc, báo hiệu thời kỳ mới của cách mạng Việt Nam. Tình hình
trong nước lúc này hết sức sôi động, nhân dân nổi dậy đấu tranh vũ trang giành
chính quyền, các đội du kích vũ trang cũng được thành lập - đây chính là lực
lượng nòng cốt cùng nhân dân đấu tranh. Hội nghị lần thứ 7 Trung ương Đảng
(06/11/1940) nhận định: đế quốc Pháp thỏa hiệp, mở đường cho phát xít Nhật vào
Đông Dương, gây ra bao tai họa không kể xiết đối với nhân dân ta. Để chống lại,
nhân dân ta đã thực hiện nhiều hình thức cao của đấu tranh chính trị và bắt đầu
kết hợp với đấu tranh vũ trang. Tuy những hình thức đấu tranh ấy chưa phổ biến
và chưa quyết liệt, nhưng một cao trào mới sẽ bùng lên. Do vậy, “Đảng phải
chuẩn bị để gánh lấy sứ mệnh thiêng liêng, lãnh đạo các dân tộc bị áp bức ở
Đông Dương vũ trang bạo động giành lấy quyền tự do, độc lập”2.
Khi biết tin về phong trào đấu tranh cách mạng ở trong nước,
nhất là cuộc Khởi nghĩa Nam Kỳ sắp nổ ra, Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc triệu tập Hội
nghị cán bộ tại Quế Lâm (Trung Quốc). Người phân tích: “Tình hình chung trên
thế giới và Đông Dương ngày càng có lợi cho ta, nhưng thời cơ chưa đến, chưa
thể khởi nghĩa được. Song nay khởi nghĩa đã nổ ra rồi, thì cần tổ chức rút lui
cho khéo để duy trì phong trào cách mạng”3.
Người gấp rút thảo ngay một bức điện gửi xứ ủy Nam Kỳ đề nghị hoãn cuộc Khởi
nghĩa, nhưng rất tiếc bức điện không kịp đến nơi. Nhận thấy vấn đề đoàn kết
toàn dân, giải phóng dân tộc ngày càng quan trọng, Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc dự
định lập một hình thức mặt trận có thành phần rộng rãi, tên gọi phù hợp, nhằm
tập hợp được đông đảo nhân dân. Người cùng với các đồng chí: Phùng Chí Kiên,
Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp biên soạn tài liệu “Con đường giải phóng” và mở
lớp tập huấn, đào tạo lớp thanh niên thuộc các dân tộc Cao Bằng đang ở Trung
Quốc (trốn sự truy lùng, khủng bố của thực dân Pháp) thành những cán bộ cốt cán
trở về nước củng cố và mở rộng cơ sở quần chúng, thành lập các đoàn thể cứu
quốc.
Ngày 28/01/1941, sau 30 năm ra đi tìm đường cứu nước, Lãnh tụ
Nguyễn Ái Quốc cùng với các đồng chí Lê Quảng Ba, Phùng Chí Kiên, Hoàng Văn
Lộc, Thế An, Đặng Văn Cáp vượt qua cột mốc 108 (tại xã Trường Hà, huyện Hà
Quảng, tỉnh Cao Bằng) trên biên giới Việt - Trung trở về nước. Đây là sự kiện
lịch sử quan trọng, mở ra thời kỳ phát triển mới của cách mạng Việt Nam, thời
kỳ chuẩn bị mọi mặt cho cuộc Tổng khởi nghĩa giành chính quyền thắng lợi.
Trước những biến động sâu sắc của cách mạng thế giới và trong
nước, Người nhận thấy thời cơ đang đến, đòi hỏi phải có những quyết sách kịp
thời, chỉ đạo sát sao, nhạy bén và tập trung hơn nữa để thúc đẩy phong trào
quần chúng, tập hợp cho được sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân, thực hiện
thắng lợi mục tiêu giải phóng dân tộc khi thời cơ chín muồi. Với danh nghĩa đại
diện Quốc tế Cộng sản, tháng 5/1941, Nguyễn Ái Quốc quyết định triệu tập và chủ
trì Hội nghị Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương lần thứ 8. Điểm nổi bật của
Hội nghị là thay đổi đường lối chiến lược cách mạng của Đảng, đưa ra một số
quyết sách quan trọng, trước hết là chuyển hướng chiến lược cách mạng, tập
trung giải quyết một cách đúng đắn, khoa học mối quan hệ giữa dân tộc và giai
cấp. Nghị quyết Hội nghị xác định rõ: “Trong lúc này quyền lợi của bộ phận, của
giai cấp phải đặt dưới sự sinh tử, sự tồn vong của quốc gia, của dân tộc. Trong
lúc này nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi lại được
độc lập tự do cho toàn thể dân tộc, thì không những toàn thể quốc gia dân tộc
chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ phận giai cấp đến vạn năm cũng
không đòi lại được”4. Vấn đề này
không những khắc phục quan điểm về đấu tranh giai cấp, mà còn mang lại thắng
lợi cho cách mạng Việt Nam.
Hội nghị cũng tiếp nhận sáng kiến của Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc là
thành lập Mặt trận dân tộc thống nhất chống thực dân Pháp và phát xít Nhật ở
Việt Nam, lấy tên là Việt Nam độc lập đồng minh (gọi tắt là Việt Minh). Để thực
hiện nhiệm vụ này, Người liên tiếp mở các lớp huấn luyện cán bộ; chỉ đạo soạn
thảo các văn kiện, như: Tuyên ngôn, Chương trình, Ðiều lệ; thí điểm xây dựng
Mặt trận Việt Minh ở Cao Bằng, từ đó kiểm nghiệm, bổ sung, hoàn thiện trước khi
mở rộng ra cả nước. Việc thành lập Mặt trận Việt Minh là một sáng tạo mang tính
chiến lược của Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc nhằm đoàn kết các lực lượng cứu nước,
giải phóng dân tộc. Chính Mặt trận Việt Minh đã lôi cuốn, tập hợp sức mạnh quần
chúng cả nước đứng lên khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân, góp phần
quyết định sự thành công của Cách mạng Tháng Tám.
Với tư tưởng phải tích cực xây dựng lực lượng cách mạng về mọi
mặt, ngay từ những ngày đầu về nước, Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã chỉ đạo xây dựng
lực lượng vũ trang nhân dân, Người chỉ thị thành lập đội du kích tập trung đầu
tiên ở Pác Bó (11/1941). Sớm nhận thấy vai trò chiến lược của bộ đội chủ lực,
Người chủ trương lập đội Quân Giải phóng, vạch ra những nét chính từ tổ chức
đến phương châm hành động và vấn đề cung cấp lương thực, vũ khí, đạn dược; lựa
chọn cán bộ, đội viên từ các đội tự vệ chiến đấu, du kích địa phương, v.v.
Ngày 22/12/1944, Người ra Chỉ thị thành lập Đội Việt Nam tuyên
truyền giải phóng quân - tiền thân của Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng ngày
nay. Theo Người: “… Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân là đội quân đàn
anh mong cho chóng có những đội đàn em khác. Tuy lúc đầu quy mô của nó còn nhỏ,
nhưng tiền đồ của nó rất vẻ vang. Nó là khởi điểm của giải phóng quân, nó có
thể đi suốt từ Nam chí Bắc, khắp đất nước Việt Nam chúng ta”5. Thực tiễn đã chứng minh, với những chủ
trương, chỉ đạo của Người về phương thức đấu tranh và tổ chức lực lượng vũ
trang là hoàn toàn đúng đắn. Quân đội ta từ một lực lượng nhỏ bé, vũ khí, trang
bị thô sơ đã vươn lên thành một đội quân hùng mạnh, đánh bại quân xâm lược và
bè lũ tay sai có vũ khí, trang bị hiện đại, xứng đáng là Quân đội từ nhân dân
mà ra, vì nhân dân chiến đấu, xây đắp nên truyền thống vẻ vang: trung với Đảng,
hiếu với dân, sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì chủ
nghĩa xã hội, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù
nào cũng đánh thắng.
Năm 1945, phong trào chống giặc, cứu nước phát triển mạnh mẽ,
Mặt trận Việt Minh có thêm hàng triệu hội viên, đội quân chính trị ở thành thị
và nông thôn phát triển nhanh chóng, lực lượng vũ trang cách mạng mở rộng các
vùng căn cứ, khởi nghĩa từng phần bùng nổ ở nhiều địa phương, hoạt động du kích
cũng xuất hiện ở nhiều nơi. Trước tình hình đó, tháng 4/1945, Ban Thường vụ
Trung ương Đảng triệu tập Hội nghị quân sự cách mạng Bắc Kỳ, quyết định thống
nhất chỉ huy các chiến khu, tổ chức tự vệ và tự vệ chiến đấu ở khắp nơi; hợp
nhất hai tổ chức quân sự: Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân và Cứu quốc
quân thành Việt Nam Giải phóng quân; thành lập Ủy ban quân sự cách mạng để chỉ
huy các chiến khu miền Bắc Đông Dương; đẩy mạnh khởi nghĩa từng phần tiến tới
tổng khởi nghĩa.
Ngày 13/8/1945, Hội nghị toàn quốc của Đảng tại Tân Trào, dưới
sự chủ trì của Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã quyết định phát động toàn dân khởi
nghĩa trong cả nước và cử ra Ủy ban Khởi nghĩa toàn quốc để chỉ đạo phong trào
đấu tranh của nhân dân. Ngày 16/8/1945, Quốc dân đại hội được tiến hành dưới sự
chủ trì của Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, Đại hội đã cử ra Ủy ban dân tộc giải phóng
Việt Nam tức Chính phủ lâm thời do Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc làm Chủ tịch. Chính
phủ lâm thời đã đoàn kết rộng rãi các tầng lớp nhân dân, các đảng phái yêu nước
và những nhân sĩ tiến bộ trong cả nước để đưa con thuyền cách mạng đi đến thắng
lợi. Điều này thể hiện tầm nhìn chiến lược, sự lãnh đạo sáng suốt, tài tình của
nhà cách mạng thiên tài, đồng thời thể hiện sự nhất quán trong tư tưởng, chủ
trương hành động của Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc về phát huy sức mạnh đại đoàn kết
toàn dân tộc.
Quyết định trở về Tổ quốc và trực tiếp đưa ra những chỉ đạo chiến
lược đối với cách mạng của Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh, cơ sở, tiền đề
vững chắc, chỗ dựa cho toàn dân tộc đứng lên làm cuộc Cách mạng Tháng Tám 1945
thành công, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa - Nhà nước công nông đầu
tiên ở Đông Nam châu Á. Thắng lợi đó đã đưa nước ta bước vào kỷ nguyên mới, kỷ
nguyên độc lập tự do và chủ nghĩa xã hội.
Trần Toàn
Đang truy cập: 303
Hôm nay: 602
Tổng lượt truy cập: 1,135,329