Khi chọn Bộ trưởng Bộ Nội vụ trong Chính
phủ Liên hiệp Kháng chiến Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nghĩ, nhớ ngay tới
một trí thức nổi tiếng là cụ Huỳnh Thúc Kháng.
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định “Cán bộ là cái gốc
của mọi công việc”, “Muôn việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hoặc
kém”. Hồ Chí Minh không chỉ là nhà tư tưởng, Người còn là nhà thực hành. Tất cả
những nội dung Người nói, Người làm bao giờ cũng thống nhất với nhau. Nhìn lại
những bài học về dùng người của Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn còn đó tính thời sự
nóng hổi, nhất là vào thời điểm sắp diễn ra Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XIII của Đảng.
Chủ tịch Hồ Chí Minh nói chuyện thân mật với
các đại biểu trí thức dự Hội nghị chính trị đặc biệt.
Trọng dụng người tài đức vì lợi ích quốc
gia dân tộc
Lịch sử đã đủ dài để chúng ta cùng nhìn lại rõ hơn cách dùng
người thật đặc biệt của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Một trong những điểm đặc sắc nhất
trong dùng người của Chủ tịch Hồ Chí Minh là trọng dụng người tài đức vì lợi
ích quốc gia dân tộc; tin thì mới dùng, đã dùng thì tin; quan tâm giáo dục đạo
đức nhưng cũng đặc biệt nghiêm minh trong xử lý cán bộ sai phạm.
Đã có rất nhiều những câu chuyện nổi tiếng về lựa chọn và sử
dụng người tài của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Ngay sau Cách mạng tháng Tám năm 1945,
Hồ Chí Minh đã tự tay viết “Thông lệnh tìm người tài đức”. Đây được xem như
Chiếu cầu hiền của Chủ tịch nước Việt Nam mới: “Nước nhà cần phải kiến thiết.
Kiến thiết cần phải có nhân tài. Trong số 20 triệu đồng bào chắc không thiếu
người có tài có đức. E vì Chính phủ nghe không đến, thấy không khắp, đến nỗi
những bực tài đức không thể xuất thân. Khuyết điểm đó tôi xin thừa nhận. Nay
muốn sửa đổi điều đó và trọng dụng những kẻ hiền nǎng, các địa phương phải lập
tức điều tra nơi nào có người tài đức, có thể làm được những việc ích nước lợi
dân, thì phải báo cáo ngay cho Chính phủ biết. Báo cáo phải nói rõ: tên tuổi,
nghề nghiệp, tài nǎng, nguyện vọng và chỗ ở của người đó. Hạn trong một tháng,
các cơ quan địa phương phải báo cáo cho đủ”.
Cũng vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã mời rất nhiều các nhân vật nổi
tiếng cùng tham gia gánh vác việc nước. Khi chọn người đứng đầu Bộ trưởng Nội
vụ trong Chính phủ Liên hiệp Kháng chiến Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
nghĩ, nhớ ngay tới một trí thức nổi tiếng là cụ Huỳnh Thúc Kháng. Để mời được
cụ ra Hà Nội, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phải nhiều lần đánh điện để rồi sau đó cụ
Huỳnh mới quyết định nhận lời. Năm ấy, cụ Huỳnh Thúc Kháng đã 70 tuổi, cái tuổi
mà với người Việt Nam khi ấy đã là “nhân sinh thất thập cổ lai hy”. Thế nhưng
sau khi ra Hà Nội gặp Chủ tịch Hồ Chí Minh, hai con người đáng kính ấy đã tìm
được tiếng nói đồng điệu và cụ Huỳnh đã nhận lời làm Bộ trưởng Nội vụ của Chính
phủ.
Cũng câu chuyện cầu hiền, ngày 17/11/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã giao những người thân tín tới tận quê nhà của cụ Bùi Bằng Đoàn, cựu Thượng
thư Bộ Hình triều Nguyễn trao một bức thư do đích thân Chủ tịch Hồ Chí Minh
đánh máy mời cụ Bùi ra gánh vác việc nước với những lời lẽ hết sức khiêm cung:
“Thưa Ngài! Tôi tài đức ít ỏi, mà trách nhiệm nặng nề. Thấy Ngài học vấn cao
siêu, kinh nghiệm phong phú. Vậy nên, tôi mời Ngài làm Cố vấn cho tôi, để giúp
thêm ý kiến trong công việc hưng lợi, trừ hại cho nước nhà dân tộc. Cảm ơn và
chúc Ngài mạnh khỏe. Kính thư. Hồ Chí Minh”. Sau nhiều lần lưỡng lự, cụ Bùi
Bằng Đoàn đã nhận lời và sau này cụ đã lần lượt giữ nhiều chức vụ quan trọng
trong chính quyền cách mạng. Một trong những chức vụ mà cụ Bùi Bằng Đoàn đảm
nhiệm lâu nhất là Trưởng ban Thường trực Quốc hội (tức Chủ tịch Quốc hội).
Chiến khu Việt Bắc những năm tháng gian khổ chống thực dân Pháp
là nơi quy tụ rất nhiều những nhân sỹ, trí thức nổi tiếng đã đi theo Chính phủ
kháng chiến giành độc lập vì tinh thần yêu nước, vì sức hút và tấm lòng chân
thành của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Thậm chí, có những người khi đương chức đã có
những hành động không đúng với Nhân dân như Tổng đốc Thái Bình Vi Văn Định
nhưng sau đó vẫn được Chủ tịch Hồ Chí Minh mời và cụ đã trở thành một nhân sỹ
nổi tiếng đi theo cách mạng để lại tiếng thơm mãi mãi trong lịch sử.
Trước đó, rất nhiều những người con, người cháu của cụ Vi Văn
Định đã từ bỏ cuộc sống giàu sang, phú quý để đi theo cách mạng, trong đó phải
kể tới những người con rể và cháu rể nổi tiếng của cụ như: Các con rể Nguyễn
Văn Huyên (tiến sỹ văn chương của Pháp, sau này làm Bộ trưởng Giáo dục gần 30
năm); Hồ Đắc Di (bác sỹ người Việt nổi tiếng, con trai của Thượng thư triều
Nguyễn, anh vợ vua Khải Định); cháu rể Tôn Thất Tùng (con trai Tổng đốc Thanh
hóa Tôn Thất Niên). Ngoài ra, còn phải kể tới hàng loạt những nhân vật nổi tiếng
khác, đó là: Phan Kế Toại (Khâm sai đại thần Bắc Bộ của Chính phủ Trần Trọng
Kim); Phạm Khắc Hòe (Đổng lý Ngự tiền đức vua Bảo Đại); Tham tri Đặng Văn
Hướng; Hồ Đắc Điềm (cựu Tổng đốc Hà Đông); Hoàng thân Ưng Úy, thành viên hoàng
tộc Nhà Nguyễn; nhà Hán học nổi tiếng Bùi Kỷ; Phan Anh (Tổng trưởng Thanh niên
Chính phủ Trần Trọng Kim).v.v…
Bằng tấm lòng chân thành của mình tất cả vì đất nước và dân tộc,
Hồ Chí Minh đã quy tụ quanh mình một đội ngũ lãnh đạo thật sự được xem là “thế
hệ vàng” của cách mạng Việt Nam.
Tin thì mới dùng, đã dùng thì phải tin
Một trong những nét rất đặc sắc trong dùng người của Chủ tịch Hồ
Chí Minh không thể không nhắc tới là đã tin thì mới dùng, đã dùng thì phải tin.
Năm 1946, trên đường sang thăm nước Pháp theo lời mời của Chính
phủ Pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã giao quyền Chủ tịch nước cho cụ Huỳnh Thúc
Kháng. Khi ấy xung quanh Hồ Chí Minh có rất nhiều đồng chí thân tín của Người,
song Người đã quyết định giao chức Chủ tịch nước khi Người đi vắng cho một nhân
sỹ, trí thức không đảng phái với lời dặn nổi tiếng “Tôi vì nhiệm vụ quốc dân
giao phó phải đi xa ít lâu, ở nhà trăm sự khó khăn nhờ cậy ở cụ và anh em giải
quyết cho. Mong cụ “Dĩ bất biến, ứng vạn biến”.
Chính bởi sự tin tưởng này của Chủ tịch Hồ Chí Minh nên trên
cương vị quyền Chủ tịch nước, cụ Huỳnh Thúc Kháng đã chèo chống đất nước qua
những giai đoạn vô cùng khó khăn. Rõ ràng khi giao quyền Chủ tịch nước cho cụ
Huỳnh, Hồ Chí Minh đã nhìn thấy ở đó một ngọn cờ có thể quy tụ, tập hợp đoàn
kết quốc gia trong bối cảnh Người phải xa Tổ quốc dài ngày. Khi ấy, về tuổi, cụ
Huỳnh đã trên 70 tuổi, về học vấn cụ đã đỗ tiến sỹ năm Giáp Thìn 1904, về chức
vụ, trước đó cụ đã từng là Viện trưởng Viện Dân biểu Trung kỳ (như Quốc hội
miền Trung, về thành tích chống Pháp, cụ có 13 năm ngồi tù Côn Đảo.
Cũng với tinh thần này, sau này, tiễn tướng Võ Nguyên Giáp ra
Điện Biên Phủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng chỉ nói với ông rằng “tướng quân tại
ngoại”. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã mượn lời người xưa rằng tướng ngoài biên ải
nhiều khi không phải nghe lệnh vua để dặn dò vị Tổng tư lệnh của mình. Cũng bởi
lòng tin tưởng tuyệt đối ấy của Bác Hồ mà tướng Giáp đã có những quyết định
lịch sử để cùng toàn quân và toàn dân làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ lẫy
lừng.
Luật sư Phan Anh 34 tuổi, tốt nghiệp cử nhân luật Hà Nội và cử
nhân văn chương của Pháp. Trong Chính phủ Trần Trọng Kim ông đảm nhiệm chức vụ
Bộ trưởng Bộ Thanh niên. Sau này, khi thành lập Chính phủ Liên hiệp Kháng chiến
Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã mời ông làm Bộ trưởng Bộ Quốc phòng. Sinh thời,
có lần ông đã tâm sự rằng ông không ngờ Bác Hồ lại tin dùng ông như vậy.v.v…
Hồ Chí Minh kết hợp nhuần nhuyễn giữa
“đức trị” và “pháp trị”
Để lựa chọn và xây dựng được đội ngũ những người thật sự tài
năng và tâm huyết với đất nước và dân tộc, từ rất sớm, Hồ Chí Minh đã đặc biệt
quan tâm đến giáo dục đạo đức cho cán bộ, đảng viên. Bài học đầu tiên của lớp
thanh niên cách mạng ở Quảng Châu, Trung Quốc năm 1927 là bài học “Tư cách một
người cách mệnh” do đích thân Hồ Chí Minh soạn bài, đứng lớp. Đã 84 năm trôi
qua, song những nội dung của bài giảng ấy vẫn còn nguyên giá trị. Nội dung của
bài giảng đã chỉ ra rất cụ thể những yêu cầu về phẩm chất và năng lực của người
cán bộ cách mạng: “Tự mình phải: Cần kiệm. Hoà mà không tư. Cả quyết sửa lỗi
mình. Cẩn thận mà không nhút nhát. Hay hỏi. Nhẫn nại (chịu khó). Hay nghiên
cứu, xem xét. Vị công vong tư. Không hiếu danh, không kiêu ngạo. Nói thì phải
làm. Giữ chủ nghĩa cho vững. Hy sinh. Ít lòng ham muốn về vật chất...
Năm 1947, khi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đang ở giai
đoạn cực kỳ gay go quyết liệt, giữa núi rừng Việt Bắc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
viết tác phẩm nổi tiếng “Sửa đổi lối làm việc”. Cuốn sách đã đưa ra rất nhiều
các yêu cầu cần có của một người cách mạng. Cho đến những năm cuối đời, Hồ Chí
Minh vẫn chưa thôi đáu đáu về giáo dục đạo đức cho cán bộ, đảng viên. Nỗi trăn
trở lớn này đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh viết rõ trong tác phẩm “Nâng cao đạo
đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân”. Đặc biệt, những lời căn dặn đau
đáu trong Di chúc trước khi đi xa: “Đảng ta là một Đảng cầm quyền… Mỗi đảng
viên và cán bộ đều phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm
liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng
đáng là người lãnh đạo, người đầy tớ thật trung thành với nhân dân...”.
Là một nhà lãnh đạo đề cao đạo đức, song Hồ Chí Minh thật sự là
người đã kết hợp nhuần nhuyễn giữa “đức trị” và “pháp trị”.
Ngay khi nước nhà vừa giành được độc lập, tháng 10/1945, trong
Thư gửi Ủy ban nhân dân các kỳ, huyện, tỉnh và làng Hồ Chí Minh đã lên án gay
gắt những biểu hiện trái phép, cậy thế, hủ hóa, tư túng, chia rẽ và kiêu ngạo
với những lời lên án đanh thép: “… Cậy thế mình ở trong ban này ban nọ, rồi
ngang tàng phóng túng, muốn sao được vậy, coi khinh dư luận, không nghĩ đến
dân. Quên rằng dân bầu mình ra là để làm việc cho dân, chứ không phải để cậy
thế với dân… Lấy của công dùng vào việc tư, quên cả thanh liêm, đạo đức… Kéo
bè, kéo cánh, bà con bạn hữu mình, không tài nǎng gì cũng kéo vào chức này chức
nọ. Người có tài có đức, nhưng không vừa lòng mình thì đẩy ra ngoài. Quên rằng
việc là việc công, chứ không phải việc riêng gì dòng họ của ai…”.
Người đặc biệt lên án những người mà Người cho rằng lên mặt
“quan cách mạng” rằng: “Tưởng mình ở trong cơ quan Chính phủ là thần thánh rồi.
Coi khinh dân gian, nói phô, cử chỉ lúc nào cũng vác mặt “quan cách mạng”
lên…”. Trả lời chất vấn trước Quốc hội tại kỳ họp thứ 2 quốc hội khóa 1 (khai
mạc ngày 23/10/1946), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói kỹ và nhấn mạnh: “Chính phủ
hiện thời đã cố gắng liêm khiết lắm nhưng trong Chính phủ, từ Hồ Chí Minh cho
đến những người làm việc ở Ủy ban hiện đông và phức tạp lắm. Dù sao Chính phủ
cũng hết sức làm gương và nêu gương. Nếu làm gương không xong thì dùng pháp
luật để trị những kẻ ăn hối lộ, đã trị, đương trị và trị cho kỳ hết”…
Chính bởi kết hợp nhuẫn nhuyễn giữa đức trị và pháp trị nên dù
đâu đó vẫn có những vụ việc tham nhũng, tha hóa của cán bộ, đảng viên song thật
sự trong giai đoạn ấy, đa phần những cán bộ đảng viên của Đảng đã trở thành
những hình mẫu tiêu biểu mà người dân có thể tin tưởng và phó thác…
Lẽ tất nhiên, xã hội luôn luôn biến đổi không ngừng, vì vậy có
những giá trị theo thời gian đã “vạn biến”, nhưng vẫn còn đó nhiều giá trị “bất
biến” với thời gian. Trong mỗi giai đoạn quan trọng của lịch sử, trở về với Hồ
Chí Minh ta lại nhận được những mách bảo thiêng liêng từ Người./.
TS.
Vũ Trung Kiên, Phó Trưởng khoa Khoa Xây dựng Đảng,
Học
viện Chính trị khu vực II
Theo Tạp chí Tổ chức Nhà nước
Hà An (st)
Đang truy cập: 445
Hôm nay: 1,232
Tổng lượt truy cập: 1,135,959