Ngay từ lúc ra đi tìm đường cứu nước, Hồ Chí Minh đã nghĩ
tới một xã hội mới tự do, hạnh phúc, không có áp bức, bóc lột và bất công. Trên
cơ sở truyền thống văn hóa hàng nghìn năm của dân tộc Việt Nam, Người đã tiếp
thu, chắt lọc tinh hoa văn hóa phương Đông, phương Tây, văn hóa mácxít, từng
bước xây dựng lý luận văn hóa, xây dựng nền văn hóa mới mang tính cách mạng.
Hơn 2 tháng sau khi nước nhà giành được độc lập, ngày
23/11/1945, Người đã ký ban hành Sắc lệnh số 65/SL về việc Ấn định nhiệm vụ của
Đông phương Bác cổ Học viện. Trong đó ghi rõ: “Bảo tồn tất cả cổ tích trong
toàn cõi Việt Nam... Cấm phá hủy những đình, chùa, đền, miếu hoặc những nơi thờ
tự khác, những cung điện, thành, quách cùng lăng mộ chưa được bảo tồn. Cấm phá
hủy những bi ký, đồ vật, chiếu sắc, văn bằng, giấy má, sách vở có tính cách tôn
giáo hay không, nhưng có ích cho lịch sử mà chưa được bảo tồn”1. Sắc
lệnh được ban hành trong những ngày đầu thành lập Nhà nước đã đặt nền móng cho
sự nghiệp bảo tồn di sản văn hóa dân tộc. Điều đó cho thấy, Hồ Chí Minh thấu
hiểu rất rõ giá trị vật chất cũng như giá trị tinh thần của các di sản văn hóa
và coi việc bảo tồn là việc cần thiết cho công cuộc kiến thiết nước nhà.
Từ vai trò quan trọng của di sản văn hóa trong sự nghiệp xây
dựng và phát triển đất nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có những chỉ dẫn mang tính
định hướng về giữ gìn và phát huy di sản văn hóa dân tộc như sau:
Một là, Đảng và Nhà nước cần quan tâm đến việc giữ gìn và
phát huy các giá trị văn hóa dân tộc.
Ngay từ khi tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc, Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã chủ trương xây dựng một xã hội tương lai, trong đó việc xây dựng
một nền văn hóa mới đóng vai trò quan trọng, vừa là mục tiêu, vừa là động lực
của sự nghiệp cách mạng. Người cho rằng, văn hóa là tinh hoa của dân tộc, văn
hóa phải góp phần khẳng định vị thế của dân tộc. Tính chất dân tộc là yếu tố
quyết định nhất của một nền văn hóa mới, là điều kiện để tiếp thu văn hóa nhân
loại. Vì vậy, để xây dựng nền văn hóa mới phải thực hiện ba nhiệm vụ chính: Thứ
nhất là củng cố, bảo tồn, phát huy những giá trị của văn hóa truyền thống của
dân tộc. Thứ hai là khắc phục những thiếu hụt của văn hóa truyền thống. Và cuối
cùng là tạo ra những giá trị văn hóa tương lai, hoàn thiện nhân cách, hướng con
người tới chân, thiện, mỹ. Trong Báo cáo chính trị tại Đại hội Đại biểu toàn
quốc lần thứ II của Đảng Lao động Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ
những mục tiêu cơ bản mà cách mạng Việt Nam cần phải đạt được trong lĩnh vực
văn hoá là: “Phải triệt để tẩy trừ mọi di tích thuộc địa và ảnh hưởng nô dịch
của văn hoá đế quốc, đồng thời phát triển những truyền thống tốt đẹp của văn
hoá dân tộc và hấp thụ những cái mới của văn hóa tiến bộ thế giới để xây dựng
một nền văn hóa Việt Nam có tính dân tộc, khoa học và đại chúng”2.
Chủ trương trên thể hiện rõ ràng quan điểm của Hồ Chí Minh về giá trị văn hóa
dân tộc. Người cho rằng thấm nhuần chủ nghĩa Mác - Lênin bao nhiêu thì càng
phải coi trọng truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc bấy nhiêu. Người đòi
hỏi “Đảng phải ra sức tổ chức nhân dân, lãnh đạo nhân dân để giải phóng nhân
dân và để nâng cao sinh hoạt, văn hoá, chính trị của nhân dân”3.
Đảng và Nhà nước không thể thờ ơ hay “bỏ trống trận địa văn hóa” và càng không
thể tách rời việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc với việc phát triển
kinh tế xã hội của nước nhà. Trong Thư gửi anh em văn hóa và trí thức Nam Bộ
ngày 25/5/1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Chính phủ cùng toàn thể đồng
bào Việt Nam kiên quyết chiến đấu, tranh quyền thống nhất và độc lập cho nước
nhà để cho văn hóa cũng như chính trị và kinh tế, tín ngưỡng, đạo đức đều được
phát triển tự do”4. Rất nhiều bài viết, tác phẩm của Hồ Chí Minh đã
thể hiện quan điểm của Người về xóa bỏ những tàn dư tư tưởng, thói hư tật xấu
do xã hội cũ để lại, xây dựng một nền văn hóa mới với nội dung xã hội chủ nghĩa
và đậm đà bản sắc dân tộc, xây dựng con người mới, lối sống mới và đạo đức mới
xã hội chủ nghĩa: “Về văn hóa, Chính phủ sẽ chú ý trình độ học thức cho dân
tộc”5; “Thực hành chế độ giáo dục bắt buộc, mở nhiều trường học, rạp
hát, tổ chức các lớp bình dân học vụ, giúp đỡ những người nghèo mà hiếu học.
Phát triển thể dục, đức dục, bãi bỏ học phí nhập học do người Pháp đặt ra”6.
Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, phải có một chính sách đặc
biệt đối với mọi tầng lớp nhân dân về giữ gìn và phát huy di sản văn hóa dân
tộc, phải thẩm thấu vào toàn xã hội và đến với từng thành viên để phát huy tiềm
năng sáng tạo. Người nhấn mạnh: “Phải có chính sách rõ ràng, phương châm đúng
đắn, kế hoạch đầy đủ, có tổ chức, có lãnh đạo”7 và “Bất cứ việc
to việc nhỏ, chúng ta phải xét rõ và làm cho hợp trình độ văn hoá, thói quen
sinh hoạt, trình độ giác ngộ, kinh nghiệm tranh đấu, lòng ham, ý muốn, tình
hình thiết thực của quần chúng. Do đó mà định cách làm việc, cách tổ chức. Có
như thế, mới có thể kéo được quần chúng”8.
Hai là, tuyên truyền, giáo dục nhân dân có ý thức coi trọng
những giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt coi trọng những giá trị văn
hóa truyền thống dân tộc thông qua tuyên truyền, giáo dục nhân dân về lòng yêu
nước, đoàn kết, nhân ái, tinh thần tự hào, tự tôn của dân tộc, sẵn sàng hy sinh
quên mình vì nước, vì dân. Những giá trị truyền thống đó là tinh hoa, là vốn
quý và chính là cái làm nên hồn cốt của quốc gia, của dân tộc Việt Nam. Trong
bài Diễn văn khai mạc Hội nghị văn hóa toàn quốc, Người nêu rõ: “Văn hóa phải
làm thế nào cho ai cũng có lý tưởng tự chủ, độc lập tự do. Đồng thời văn hóa
phải làm thế nào cho quốc dân có tinh thần vì nước quên mình, vì lợi ích chung
mà quên đi lợi ích riêng”9.
Để nhân dân có ý thức coi trọng, giữ gìn và phát huy các giá
trị văn hóa truyền thống của dân tộc thì phải tăng cường tuyên truyền giáo dục
nhân dân. Theo Hồ Chí Minh, phương pháp tuyên truyền giáo dục là đề cao yếu tố
nêu gương, giáo dục bằng việc làm, hành động và hướng dẫn cụ thể, lấy gương
người tốt, việc tốt để giáo dục có sức thuyết phục và hiệu quả nhất. Người nói:
“Lấy gương người tốt, việc tốt để hàng ngày giáo dục lẫn nhau là một trong
những cách tốt nhất”10 và “Nói chung thì các dân tộc phương
Đông đều giàu tình cảm và đối với họ một tấm gương sống còn có giá trị hơn một
trăm bài diễn văn tuyên truyền”11. Những tấm gương sáng, những hành
động tiêu biểu và việc làm tốt đều rất đáng được trân trọng. Do đó tuyên
truyền, giáo dục cho nhân dân là việc làm thiết thực. Nhưng tuyên truyền giáo
dục phải cụ thể, không được trống rỗng, không rõ mục đích. Ở bài viết Người
tuyên truyền và cách tuyên truyền, Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Tuyên truyền là đem một
việc gì nói cho dân hiểu, dân nhớ, dân theo, dân làm. Nếu không đạt được mục
đích đó, là tuyên truyền thất bại”12. Người căn dặn phải tìm tòi
phương pháp tuyên truyền cụ thể, phải có kế hoạch rõ ràng: “Phải tìm mọi cách
giải thích cho mỗi một người dân hiểu rõ rằng: Việc đó là lợi ích cho họ và
nhiệm vụ của họ, họ phải hăng hái làm cho kỳ được”13; “Tuyên truyền
đời sống mới cũng như tuyên truyền việc khác, phải hăng hái, bền gan, chịu khó,
đồng thời phải cẩn thận, khôn khéo, mềm mỏng”14.
Biện pháp hiệu quả nhất, theo Hồ Chí Minh là phải nâng cao
dân trí để nhân dân hiểu được quyền lợi, bổn phận, kiến thức, sự hiểu biết về
lịch sử, về văn hóa, phải làm cho văn hóa thấm sâu vào đời sống xã hội, từ
người già đến thế hệ trẻ, đàn ông hay đàn bà đều hiểu được trách nhiệm và nghĩa
vụ của mình. Trong bài Chống nạn thất học, Người viết: “Một trong những công
việc phải thực hiện cấp tốc trong lúc này là nâng cao dân trí”15.
Khi dân trí được nâng cao thì các vấn đề về kinh tế, chính trị xã hội của đất
nước mới được giải quyết một cách hiệu quả. Ở đâu có trình độ dân trí được nâng
cao thì ở đó thực hiện tốt việc giữ gìn và phát huy các giá trị văn hóa dân
tộc. Trong tác phẩm Thường thức chính trị, Người nhấn mạnh yêu cầu: “Phải xây
dựng một nền văn hóa dân tộc, khoa học, đại chúng. Phải nâng cao trình độ văn
hóa của nhân dân. Phải đề xướng đạo đức công dân tức là yêu Tổ quốc, yêu nhân
dân”. Người khẳng định phải phát triển nền giáo dục thì mới xây dựng được chủ
nghĩa xã hội, bởi lẽ “Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu”, sự dốt nát cũng
chính là kẻ địch nguy hiểm cần phải loại bỏ.
Ngoài ra, việc tăng cường giáo dục truyền thống cho các thế
hệ trẻ cũng góp phần quan trọng giữ gìn các giá trị văn hóa của dân tộc. Trong
Bài nói chuyện với các đại biểu nhân dân Hải Phòng, Hồ Chí Minh đề ra nhiệm vụ:
“Văn hóa dân tộc của ta, tẩy trừ văn hóa trụy lạc của đế quốc, giáo dục con em
thành những công dân tốt”16. Người luôn nhắc nhở phải chăm lo đến sự
nghiệp giáo dục nước nhà và khẳng định nền giáo dục mới đem lại các giá trị
tinh thần tốt đẹp cho nhân dân Việt Nam. Người còn lên án chính sách ngu dân
của thực dân Pháp: “Phải ra sức tẩy sạch ảnh hưởng giáo dục nô dịch của thực
dân còn sót lại, như: Thái độ thờ ơ đối với xã hội, xa rời đời sống lao động và
đấu tranh của nhân dân; học để lấy bằng cấp, dạy theo lối nhồi sọ”17.
Vì vậy, giáo dục tư tưởng, đạo đức, lối sống văn hóa cho thế hệ trẻ là cần
thiết. Qua đó có thể xây dựng cho thế hệ trẻ có lý tưởng, có khát vọng và trách
nhiệm để xứng đáng làm chủ nước nhà. Hướng cho các thế hệ trẻ thấy được cội
nguồn tạo nên bản sắc, cốt cách và các giá trị văn hóa dân tộc. Đồng thời, phát
động nhiều phong trào có ý nghĩa như “Uống nước nhớ nguồn”, “Mở rộng phong trào
thi đua yêu nước”, phong trào xây dựng “Đời sống mới”... để lôi kéo, thu hút
nhân dân tham gia xây dựng lối sống văn hóa, hướng người dân có những cách cư
xử và hành động nhằm cải thiện đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân.
Ba là, giữ gìn những giá trị văn hóa dân tộc phải gắn liền
với loại bỏ những phong tục tập quán lạc hậu trong nhân dân.
Trên con đường đưa nhân dân “thoát khỏi dã man” dưới ách thực
dân để vươn tới văn minh trong một đời sống mới, Hồ Chí Minh chủ trương phải kế
thừa và phát huy các di sản văn hóa của dân tộc, cả văn hóa vật chất và văn hóa
tinh thần. Theo Người, cần biết trân trọng, giữ gìn, kế thừa và phát huy những
gì tốt đẹp, quý báu, đồng thời phải loại bỏ những gì lỗi thời, lạc hậu của
truyền thống cũ. Người căn dặn: “Cần xây dựng và phát triển thuần phong mỹ tục”18,
cái gì tốt chúng ta nên giữ gìn, cái gì xấu thì nên loại bỏ. Phải đón nhận
những cái mới nhưng phải tiếp thu có chọn lọc nhằm bổ sung những cái còn thiếu.
Trong buổi nói chuyện tại Hội nghị cán bộ văn hóa, Người nhấn mạnh: “Nói là
khôi phục vốn cũ, thì nên khôi phục cái gì tốt, còn cái gì không tốt thì phải
loại dần ra”19.
Chủ tịch Hồ Chí Minh phê phán những cái xấu, cái hèn, cái ác
trong con người và trong xã hội, đồng thời nêu những cái tốt, cái hay của dân
tộc, nhưng quan điểm của Người nêu cái hay, cái tốt cũng phải có chừng mực,
không được phóng đại cũng không nên bịa đặt. Kế thừa và phát huy những giá trị
văn hóa truyền thống thì không nên giữ nguyên xi những yếu tố cũ mà phải lựa
chọn, sàng lọc những yếu tố tích cực để phù hợp với thời đại mới: “Việc phát
huy vốn cũ quý báu của dân tộc (nhưng tránh “phục cổ” một cách máy móc) và học
tập văn hóa tiên tiến của các nước (trước hết là các nước bạn) cũng chưa làm
được nhiều”20. Bởi đây là không phải là một việc dễ dàng, có thể
giải quyết nhanh chóng, mà là “một cuộc chiến đấu chống lại những gì đã cũ kỹ,
hư hỏng, để tạo ra những cái mới mẻ, tốt tươi”21.
Trong tác phẩm Đời sống mới, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ xây
dựng lối sống mới phải phù hợp với điều kiện mới trên cơ sở kế thừa những tinh
hoa truyền thống dân tộc. Nguyên tắc xây dựng lối sống mới, nếp sống mới là vận
động tự nguyện, không áp đặt, không bắt buộc và phải phù hợp từng đối tượng.
Đời sống mới không phải là cái gì cũ cũng bỏ hết, không phải cái gì cũng làm
mới, cái gì cũ mà xấu thì phải bỏ và cái gì cũ mà tốt, thì phải phát triển
thêm, cụ thể: “Sửa đổi những việc rất cần thiết, rất phổ thông, trong đời sống
của mọi người, tức là sửa đổi cách ăn, cách mặc, cách ở, cách đi lại, cách làm
việc” ; những thói cờ bạc, trộm cắp, hút sách, đánh chửi, kiện cáo nhau phải bị
lên án; đồng thời phải xây dựng làng kiểu mẫu và tuyên truyền giáo dục cho nhân
dân hiểu được những tiêu cực và hậu quả của những thói quen lạc hậu để nhân dân
thấy được sự cần thiết phải thay đổi trong nhận thức và hành vi.
Bốn là, đối với cán bộ làm công tác văn hóa.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đặt ra yêu cầu cán bộ văn hóa nói
riêng cũng như đội ngũ cán bộ nói chung phải rèn luyện tư tưởng, có lập trường
chính trị, có ý chí phấn đấu và tinh thần trách nhiệm. Cán bộ văn hóa phải ra
sức học tập, học lịch sử, am hiểu văn hóa Việt Nam và văn hóa thế giới, phải sử
dụng thành thạo ngoại ngữ. Năng lực và phẩm chất của người cán bộ văn hóa phải
qua huấn luyện, rèn luyện mà nên. Huấn luyện cán bộ văn hóa giúp cán bộ nắm
được những kiến thức cơ bản về lịch sử, văn hóa, địa lý, xã hội, chính trị,
khoa học tự nhiên để đào tạo ra đội ngũ cán bộ thực sự trở thành người có trình
độ, chuyên môn đáp ứng nhiệm vụ được giao. Người còn nhắc nhở lãnh đạo cơ quan
hay người phụ trách về văn hóa nên có kế hoạch mở lớp đào tạo bồi dưỡng cán bộ
văn hóa còn yếu kém về lịch sử, văn hóa, sắp xếp theo trình độ cao hay thấp
không nên sắp xếp theo thứ bậc. Người chỉ rõ: “Những cán bộ học trong những lớp
này, phải theo trình độ văn hóa cao hay thấp mà đặt lớp, chứ không theo cấp bậc
cán bộ cao hay thấp”23. Đồng thời Người quan tâm đến phương thức tổ
chức và phương pháp đào tạo phải đảm bảo tính thiết thực, phù hợp, chu đáo phân
rõ từng cấp từng trình độ. Người yêu cầu: “Mở lớp nào cho ra lớp ấy; lựa chọn
người dạy và người đến học cho cẩn thận; đừng mở lớp lung tung”24.
Người cũng phê phán phương thức tổ chức đào tạo thường chạy theo số lượng dẫn
đến chất lượng không cao ảnh hưởng đến công việc chuyên môn.
Những quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về giữ gìn và phát
huy di sản văn hóa của dân tộc không chỉ là “Kết tinh truyền thống văn hóa hàng
ngàn năm của nhân dân Việt Nam” mà còn có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc,
là những chỉ dẫn quý báu của Đảng và nhân dân trong việc nhận thức và giải
quyết những vấn đề đặt ra trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước hiện
nay. Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII
năm 1998 đã xác định 10 nhiệm vụ về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam
tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, trong đó nhiệm vụ thứ tư là bảo tồn và phát
huy các di sản văn hóa: “Hết sức coi trọng bảo tồn, kế thừa, phát huy những giá
trị văn hóa truyền thống (bác học và dân gian), văn hóa cách mạng, bao gồm cả
văn hóa vật thể và phi vật thể”. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX
của Đảng Cộng sản Việt Nam cũng chỉ rõ: “Chú trọng gìn giữ, phát triển các di
sản văn hóa phi vật thể, tôn tạo và quản lý tốt các di sản văn hóa vật thể, các
di tích lịch sử; nâng cấp các bảo tàng”25. Nối tiếp những thành tựu
trong xây dựng và phát huy văn hóa, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của
Đảng xác định: “Huy động sức mạnh của toàn xã hội nhằm bảo tồn, phát huy các
giá trị văn hóa truyền thống dân tộc; khích lệ sáng tạo các giá trị văn hóa
mới, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, làm giàu văn hóa dân tộc. Xây dựng cơ
chế để giải quyết hợp lý, hài hòa giữa bảo tồn, phát huy di sản văn hóa với
phát triển kinh tế - xã hội”26. Việc giữ gìn và phát huy di sản văn
hóa dân tộc Việt Nam có ý nghĩa quan trọng không chỉ là mục tiêu phấn đấu và
vươn tới những giá trị cao đẹp của cuộc sống mà còn có vai trò nền tảng và là
động lực của sự phát triển kinh tế, xã hội trong bối cảnh hội nhập kinh tế,
quốc tế hiện nay.
--------------------------------------
1.
Cục văn thư và lưu trữ Nhà nước, Trung tâm lưu trữ quốc gia III, Bảo vật quốc
gia: Tập sắc lệnh của Chủ tịch Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa năm 1945-1946, Nxb. Chính trị Quốc gia-Sự thật, Hà Nội, 2017, tr.120
2.
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2011, tập 7, tr.40
3,
4, 8, 12, 14, 23. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, tập 5, tr.290, tr.157, tr.288,
tr.191, tr.127, tr.311
5,
6, 15. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, tập 4, tr.131, tr.138, tr.40
7.
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, tập 8, tr.46
9.
Hồ Chí Minh về công tác văn hóa, văn nghệ, Nxb. Sự thật, Hà Nội,1997, tr.90
10,
21. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, tập 15, tr.672, tr.617
11.
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, tập 1, tr.284
13,
24. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, tập 6, tr.233, tr.363
16.
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, tập 9, tr.504
17,
18, 20. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, tập 10, tr.185, tr.603, tr.514
19.
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, tập 11, tr.557, tr.92
22.
Hồ Chí Minh với văn nghệ sĩ, văn nghệ sĩ với Hồ Chí Minh, Nxb. Hội nhà văn, Hà
Nội, 2012, tập 3, tr.113
24.
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, tập 13, tr.90
25.
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb.
Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2001, tr.208.
26.
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn
phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr.129.
ThS.
Nguyễn Thu Giang
Phòng Kỹ thuật, Bảo vệ
( Theo Trang tin điện tử
Ban quản lý lăng Chủ tịch Hồ Chí
Minh)
Đang truy cập: 83
Hôm nay: 788
Tổng lượt truy cập: 1,197,482