Hồ Chí Minh - Anh hùng giải phóng
dân tộc, nhà văn hóa lớn, Người đã làm rạng rỡ dân tộc ta, nhân dân ta, non
sông đất nước ta và đi vào lịch sử nhân loại như một trong những vĩ nhân có tầm
ảnh hưởng lớn nhất trong thế kỷ XX. Điều làm nên sự vĩ đại, nhưng gần gũi, giản
dị của Hồ Chí Minh là ở nhân cách, đạo đức, tài năng, những cống hiến của Người
cho dân tộc và nhân loại. Một trong những di sản mà Người để lại là phong cách
tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo - cơ sở, tiền đề cho việc hình thành tư tưởng
Hồ Chí Minh.
Phong cách tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo là
một trong những di sản của Chủ tịch Hồ Chí Minh
để lại cho dân tộc và nhân
loại (Trong ảnh: Ngày 6-12-1953, Bộ Chính trị tổ chức cuộc họp dưới sự chủ trì
của
Chủ tịch Hồ Chí Minh và các đồng chí lãnh đạo Đảng quyết định mở Chiến
dịch Điện Biên phủ với quyết tâm
tiêu diệt bằng được tập đoàn cứ điểm này)_Ảnh:
Tư liệu/TTXVN
Phong cách tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo Hồ Chí Minh
Phong cách là
“lề lối, cung cách, cách thức, phong thái, phong độ và phẩm cách đã trở thành
nền nếp ổn định của một người hoặc của một lớp người, được thể hiện trong tất
cả các mặt hoạt động, như lao động, học tập, sinh hoạt, ứng xử, diễn đạt (nói
và viết)… tạo nên những giá trị, những nét riêng biệt của chủ thể đó”(1). Tư
duy, theo Từ điển tiếng Việt, là “giai đoạn cao của quá trình nhận thức, đi
sâu vào bản chất và phát hiện tính quy luật của sự vật bằng những hình thức như
biểu tượng, khái niệm, phán đoán, suy lý”.
Có thể hiểu, phong cách tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo của
Hồ Chí Minh là một trong những nét độc đáo trong phong cách tư duy Hồ Chí Minh;
là cơ sở cho việc hình thành những luận điểm, tư tưởng đặc sắc mang dấu ấn Hồ
Chí Minh, tạo nên sự khác biệt giữa Hồ Chí Minh với nhiều nhà tư tưởng, nhà
lãnh đạo tiền bối và đương thời.
Với Hồ Chí Minh, độc lập là không phụ thuộc, không bắt
chước, không theo đuôi, giáo điều, tránh lối cũ, đường mòn và tự mình phải luôn
tìm tòi, suy nghĩ. Tự chủ là tự mình làm chủ suy nghĩ, làm chủ bản thân và công
việc của mình, tự mình thấy trách nhiệm trước đất nước và dân tộc. Sáng tạo là
vận dụng đúng quy luật chung cho phù hợp với cái riêng, cái đặc thù; sẵn sàng
từ bỏ những cái cũ, lạc hậu, tìm tòi, đề xuất những cái mới để có thể trả lời
được những đòi hỏi của thực tiễn cuộc sống đặt ra(2). Nhờ tinh thần độc lập, tự
chủ và sáng tạo, Hồ Chí Minh đã phát hiện ra quy luật của cách mạng Việt Nam,
phù hợp với quy luật phát triển chung của nhân loại.
Tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo hình thành rất sớm ở Hồ Chí
Minh, ngay từ thuở thiếu thời, lúc Người mới bước vào tuổi thanh niên. Khác với
các nhà cách mạng tiền bối, Hồ Chí Minh không lựa chọn sang phương Đông mà
quyết định sang phương Tây, cụ thể là nước Pháp để tìm đường cứu nước, cứu dân.
Đó là sự lựa chọn hết sức táo bạo trong thời điểm lịch sử lúc bấy giờ. Cũng với
tấm lòng yêu nước, thương dân sâu sắc, nếu như Phan Bội Châu chủ trương dựa vào
Nhật để đánh Pháp giành độc lập dân tộc, Phan Chu Trinh chủ trương giương cao
ngọn cờ dân chủ, cải cách xã hội, cứu nước bằng phương pháp nâng cao dân trí,
dân quyền, thì Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh tán thành Quốc tế Cộng sản, tiếp
thu chủ nghĩa Mác - Lê-nin và đi theo con đường Cách mạng Tháng Mười Nga.
Chính tư duy độc lập, tự chủ và sáng tạo đó đã tạo ra sự khác
biệt trong cách đi, bước đi, quan điểm, tư tưởng giữa Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí
Minh với các nhà yêu nước cách mạng tiền bối và cùng thời với Người. Để đưa ra
quyết định lựa chọn cứu nước theo con đường cách mạng vô sản, trong suốt 10
năm, từ năm 1911 đến năm 1920, Nguyễn Ái Quốc đã tự mình khảo sát, nghiên cứu
các cuộc cách mạng ở các nước tư bản Mỹ, Anh, Pháp…, đã sống, lao động, học
tập, tiếp xúc với đủ hạng người, từ tầng lớp thượng lưu, tinh hoa đến những
người lao động nghèo khổ nhất ở châu Á, Âu, Phi, Mỹ La-tinh. Điều đó giúp Người
mở rộng tầm mắt, tăng cường vốn sống, hiểu biết về cuộc sống, tình cảnh, số
phận con người, nhất là người lao động ở các nước tư bản và các nước thuộc địa.
Sau khi lựa chọn con đường cách mạng vô sản, trở thành người
cộng sản, tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo của Hồ Chí Minh thực sự có bước phát
triển mới. Từ đây, độc lập, tự chủ mới thực sự đi đến sáng tạo; trình độ tư duy
của Người đã đạt đến tầm mức có thể so sánh, lựa chọn và tổng hợp những cứ liệu
từ thực tế Việt Nam và thế giới, những kinh nghiệm từ cuộc sống, những tư tưởng
của lớp người đi trước, để từ đó mà đúc kết, hình thành nên những luận điểm, tư
tưởng, kết luận mới.
Tiếp thu chủ nghĩa Mác - Lê-nin, Hồ Chí Minh coi đó là kim
chỉ nam cho hành động, là “mặt trời soi sáng”, “trí khôn”, “cái cẩm nang thần
kỳ” có tính phương pháp luận chỉ dẫn hành động. Người coi việc học tập chủ
nghĩa Mác - Lê-nin là học tập cái tinh thần xử trí đối với mọi việc, với người
và với mình; là nắm vững lập trường, quan điểm và phương pháp của chủ nghĩa
Mác-Lê-nin để giải quyết các vấn đề của cách mạng Việt Nam. Người không tự hạn
chế, tự trói buộc mình và cũng không trói buộc người khác hoặc để người khác
trói buộc mình vào từng câu chữ. Tư duy của Hồ Chí Minh là sự thấm nhuần lời chỉ
dẫn của Lê-nin: “Chúng ta không hề coi lý luận của Mác như là một cái gì đó đã
xong xuôi hẳn và bất khả xâm phạm; trái lại, chúng ta tin rằng lý luận đó chỉ
đặt nền móng cho môn khoa học mà những người xã hội chủ nghĩa cần phải phát
triển hơn nữa về mọi mặt, nếu họ không muốn trở thành lạc hậu đối với cuộc
sống”(3).
Nhờ có tinh thần độc lập, tự chủ và sáng tạo đó, nên trong
quá trình hoạt động cách mạng, Nguyễn Ái Quốc đã có khả năng phát triển nhiều
luận điểm rất mới mẻ, bổ sung, phát triển lý luận của chủ nghĩa Mác - Lê-nin.
Chẳng hạn, Báo cáo về Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ gửi Quốc tế
Cộng sản năm 1924, nhấn mạnh, cuộc đấu tranh giai cấp ở phương Đông không giống
như ở phương Tây. Mác đã xây dựng học thuyết của mình trên một triết lý nhất
định của lịch sử châu Âu, mà châu Âu chưa phải là toàn thể nhân loại; do vậy,
phải “xem xét lại chủ nghĩa Mác về cơ sở lịch sử của nó, củng cố nó bằng dân
tộc học phương Đông”(4). Nguyễn Ái Quốc cũng đã sớm nhận ra vai trò chủ động,
tích cực của cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa. Nếu như Lê-nin
và Quốc tế Cộng sản đều cho rằng, cách mạng thuộc địa phụ thuộc vào cách mạng
vô sản chính quốc, cách mạng giải phóng dân tộc chỉ có thể thắng lợi khi cách
mạng vô sản chính quốc thắng lợi thì Hồ Chí Minh đã nêu quan điểm ngược lại,
khi cho rằng cách mạng ở các nước thuộc địa có thể nổ ra và thắng lợi trước
cách mạng vô sản chính quốc và tác động trở lại thúc đẩy cách mạng chính quốc.
Nhân dân Việt Nam hoàn toàn có thể chủ động đứng lên “đem sức ta mà tự giải
phóng cho ta”.
Đầu năm 1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời với Chính cương
vắn tắt, Sách lược vắn tắt do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo được thông qua tại Hội
nghị thành lập Đảng và đã trở thành Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng.
Cương lĩnh chính trị đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu, chủ trương
tập hợp, đoàn kết lực lượng cách mạng toàn dân tộc cũng như giải quyết vấn đề
độc lập dân tộc trong khuôn khổ nước Việt Nam. Tuy nhiên, do trái với quan
điểm, chỉ đạo của Quốc tế Cộng sản, Nguyễn Ái Quốc đã chịu nhiều sự phê phán,
chỉ trích nặng nề, phải “sống quá lâu trong tình trạng không hoạt động và giống
như là sống ở bên cạnh, ở bên ngoài của Đảng”(5). Thực tế đã chứng minh rằng,
chủ trương, cách giải quyết vấn đề dân tộc của Nguyễn Ái Quốc tại Hội nghị thành
lập Đảng là hoàn toàn đúng đắn, sáng tạo, phù hợp với thực tiễn Việt Nam, xu
thế phát triển của thời đại, thể hiện nhãn quan chính trị, tầm nhìn vượt trước
của Người trong bối cảnh nhận thức chung lúc bấy giờ.
Vậy tại sao Hồ Chí Minh lại có phong cách tư duy độc lập, tự
chủ và sáng tạo như vậy? Có thể lý giải bằng những nguyên nhân sau:
Một là, mọi suy
nghĩ của Hồ Chí Minh đều lấy thực tế Việt Nam làm điểm xuất phát. Việt Nam là
một dân tộc có truyền thống yêu nước và lòng tự tôn dân tộc sâu sắc. Lịch sử
Việt Nam đã trải qua nhiều cuộc đấu tranh chống ngoại xâm để bảo vệ chủ quyền,
nền độc lập của dân tộc. Trong lịch sử nhân loại, có lẽ ít có dân tộc nào phải
trải qua nhiều cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc như dân tộc
Việt Nam. Chính điều đó đã hình thành nên trong tính cách, đặc trưng của con
người Việt Nam lòng yêu nước nồng nàn, chủ nghĩa dân tộc, khát khao hòa bình,
độc lập, tự do cháy bỏng. Hồ Chí Minh sinh ra và lớn lên trong cảnh nước mất,
nhà tan, nhân dân bị áp bức, bóc lột bởi chủ nghĩa thực dân, phong kiến. Trong
xã hội Việt Nam đan xen, tồn tại nhiều mâu thuẫn, nhưng mâu thuẫn cơ bản, chủ
yếu là mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với thực dân xâm lược; do vậy,
nhiệm vụ đánh đổ ách thống trị của chủ nghĩa thực dân, giành độc lập, tự do cho
dân tộc, cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho nhân dân là yêu cầu cấp bách nhất. Giải
phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người là mục tiêu lớn nhất
mà Hồ Chí Minh theo đuổi. Và trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình,
mọi suy nghĩ, hành động của Người đều hướng tới mục tiêu đó.
Hai là, Hồ Chí
Minh không ngừng học tập, nghiên cứu lý thuyết và thực tiễn trong và ngoài
nước. Không phải ngẫu nhiên mà Người có được tư duy độc lập, tự chủ và sáng
tạo. Ngoài yếu tố thiên bẩm thuộc về tư duy, tố chất, ngay từ nhỏ đến lúc cuối
đời, Hồ Chí Minh luôn không ngừng nghỉ học tập, nghiên cứu để bổ sung tri thức,
năng lực tư duy và hiểu biết cho mình; lấy tự học làm phương thức chủ yếu để
nâng cao trình độ, kiến thức văn hóa. Người nghiên cứu rất kỹ tiểu sử, tư tưởng
của các nhà cách mạng tiền bối của dân tộc cũng như tư tưởng của các nhà văn
hóa, chính trị ở phương Đông và phương Tây; không ngừng đọc, suy ngẫm, chiêm
nghiệm, so sánh, lựa chọn, tiếp thu những cái hay, cái tốt của những vĩ nhân đó
để bổ sung kiến thức văn hóa cho bản thân. Chính vì thế, Hồ Chí Minh đã trở
thành một con người có trí tuệ uyên bác, mẫn tiệp, vượt thời đại.
Ba là, quá
trình hoạt động thực tiễn sinh động, phong phú ở nhiều quốc gia, trải qua nhiều
vị trí công tác, thăng trầm trong quá trình hoạt động cách mạng là những yếu tố
quan trọng hình thành tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo của Hồ Chí Minh.
Hồ Chí Minh là người hoạt động cách mạng từ rất sớm, ở nhiều
nước, trên nhiều lĩnh vực, địa bàn, vị trí công tác khác nhau và cũng hiếm có
nhà cách mạng nào trên thế giới ở thời điểm đó đi và làm nhiều nghề khác nhau
như Nguyễn Ái Quốc. Dấu chân Người đã in đậm trên những nẻo đường ở khắp châu
Âu, châu Á, châu Phi, đến Mỹ La-tinh. Mỗi công việc, địa bàn hoạt động đều đem
đến cho Nguyễn Ái Quốc những trải nghiệm phong phú, cảm nhận và chiêm nghiệm,
đánh giá khác nhau.
Nhưng quan trọng hơn là dù ở bất cứ đâu, trong bất cứ hoàn
cảnh nào, dù khó khăn đến mấy, Người cũng luôn hoạt động tích cực, sôi nổi,
xông xáo. Đặc biệt, sau khi trở thành người cộng sản, hoạt động trong Đảng Cộng
sản Pháp, Quốc tế Cộng sản, rồi cuối năm 1924 về Quảng Châu, Trung Quốc, Hồ Chí
Minh đã tranh thủ mọi thời gian, tận dụng mọi cơ hội trong các diễn đàn, hội
nghị để nói lên tiếng nói của nhân dân các thuộc địa nói chung và của nhân dân
Đông Dương và Việt Nam nói riêng trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân;
ra sức đoàn kết, tập hợp lực lượng cách mạng, chuẩn bị các điều kiện về chính
trị, tư tưởng và tổ chức cho sự ra đời của Đảng Cộng sản… Môi trường hoạt động
đa dạng, phong phú, được tiếp xúc với nhiều người, nhiều giới, giúp Nguyễn Ái
Quốc mở mang tầm mắt, học hỏi, tiếp thu được nhiều điều hay cũng như nhận ra
những hạn chế, bất cập, bất công ở những nơi Người từng sống và hoạt động.
Học tập phong cách tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo của Hồ
Chí Minh
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng trao tặng biểu trưng, khen thưởng
20 gương thanh niên tiên tiến
có thành tích xuất sắc trong học tập và làm theo
lời Bác, tại Lễ tuyên dương thanh niên tiên tiến làm theo lời Bác
lần thứ IV -
năm 2016, sáng 29-8-2016, tại Hà Nội_Ảnh: TTXVN
Yêu cầu, bối cảnh trong tình hình mới
Một là, Việt
Nam đang trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, tích
cực, chủ động hội nhập quốc tế sâu rộng, tiến bước mạnh mẽ dưới tác động của
cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư; thực hiện khát vọng dân tộc, tầm nhìn
phát triển đất nước đến năm 2030, định hướng đến năm 2045. Là nước đi sau, Việt
Nam được thừa hưởng nhiều thành tựu, bài học kinh nghiệm thành công và không
thành công của các nước đi trước, nhưng cũng phải đối mặt với không ít nguy cơ,
thách thức gay gắt trong môi trường cạnh tranh toàn cầu. Bối cảnh ấy đặt Việt
Nam trước nhiều khó khăn, thử thách to lớn. Để hiện thực hóa khát vọng dân tộc,
tranh thủ thời cơ, đẩy lùi nguy cơ, vượt qua khó khăn, thách thức, sớm trở
thành “nước đang phát triển, có công nghiệp theo hướng hiện đại, thu nhập trung
bình cao” vào năm 2025, từng bước trở thành nước “có công nghiệp hiện đại,
thuộc nhóm trên của các nước có thu nhập trung bình cao” vào năm 2030, tiến lên
“trở thành nước phát triển, có thu nhập cao” vào năm 2045(6), cần thực hiện
nhiều nhiệm vụ, giải pháp, trong đó một đột phá chiến lược là vấn đề con người,
chất lượng nguồn nhân lực, đặc biệt là trình độ, phẩm chất, năng lực tư duy độc
lập, tự chủ, sáng tạo của đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ cấp chiến
lược - lực lượng giữ vai trò quyết định sự thành bại của mục tiêu, chiến lược
phát triển đất nước. Rõ ràng, chất lượng lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý, điều hành
đất nước; các quyết sách chính trị, chủ trương, đường lối được đề ra, triển
khai, tổ chức thực hiện như thế nào, hiệu quả ra sao chủ yếu phụ thuộc vào
phong cách tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo của đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất
là ở cấp chiến lược.
Hai là, thực
trạng yếu kém về trình độ, năng lực, suy thoái về phẩm chất đạo đức, lối sống ở
một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên hiện nay đặt ra yêu cầu cấp bách. Nhiều
cán bộ, đảng viên không đáp ứng được yêu cầu chuyên môn, nghiệp vụ, yếu về lý
thuyết, xa rời thực tiễn, thiếu ý thức tu dưỡng, rèn luyện nâng cao trình độ,
nói không đi đôi với làm. Một bộ phận cán bộ, đảng viên mắc bệnh máy móc, rập
khuôn, giáo điều trong công việc cũng như trong chỉ đạo, điều hành. Thực tế
thời gian qua cho thấy, chất lượng nhiều chủ trương, chính sách chưa đáp ứng
được yêu cầu, chưa sát hợp thực tiễn; quá trình lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực
hiện ở không ít địa phương, cơ quan, đơn vị còn rập khuôn, máy móc, xơ cứng,
thiếu tính sáng tạo…Tình trạng trên đã gây bức xúc, bất bình trong dư luận và
nhân dân, ảnh hưởng không nhỏ tới vai trò lãnh đạo của Đảng, hiệu lực, hiệu quả
quản lý của Nhà nước và niềm tin của nhân dân vào đội ngũ cán bộ, đảng viên.
Ba là, ý nghĩa
và giá trị của phong cách tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo của Chủ tịch Hồ Chí
Minh trong giai đoạn hiện nay. Trong hệ thống di sản mà Người để lại cho dân
tộc và nhân loại, phong cách tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo chính là những
chỉ dẫn và phương châm chỉ đạo hành động vô cùng quý giá cho mỗi cán bộ, đảng
viên và nhân dân, cho các thế hệ cả hôm nay và mai sau. Đó là phong cách tư duy
vừa cụ thể, vừa toàn diện, vừa cách mạng lại vừa khoa học. Phong cách đó xuất
phát từ cơ sở quan trọng nhất là thực tế cuộc sống, coi thực tế là tiêu chí,
thước đo cho mọi suy nghĩ, chủ trương, quyết sách và hành động. Phong cách đó
hình thành dựa trên quan điểm, lập trường, phương pháp luận của chủ nghĩa Mác -
Lê-nin. Ngày nay, khi cuộc sống xã hội biến đổi từng ngày, đất nước ngày càng
phát triển, hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, ra sức hiện thực hóa khát vọng
phát triển, thì phong cách tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo của Hồ Chí Minh lại
càng cần được học tập, vận dụng trong công việc và cuộc sống.
Thứ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo Nguyễn Thị Nghĩa; Phó Trưởng
Ban Tuyên giáo Trung ương Bùi Trường Giang
và đại biểu gặp gỡ, động viên các
thí sinh tham gia cuộc thi "Tuổi trẻ học tập và làm việc theo tư tưởng,
đạo đức,
phong cách Hồ Chí Minh" năm 2019 tại Học viện Báo chí và Tuyên
truyền_Ảnh: TTXVN
Học tập phong cách tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo của Hồ
Chí Minh
Một là, mỗi cán
bộ, đảng viên và nhân dân cần xây dựng ý thức không ngừng học hỏi, nâng cao
trình độ, năng lực tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo theo phong cách Hồ Chí
Minh. Đây là yêu cầu, nhiệm vụ quan trọng đối với mỗi cán bộ, đảng viên và nhân
dân nhằm đáp ứng yêu cầu, đòi hỏi ngày càng cao của công việc và thực tế cuộc
sống đang đặt ra. Xây dựng ý thức tự giác học tập là con đường ngắn nhất đi đến
thành công và đó cũng là phương pháp, cách thức mà Hồ Chí Minh đã theo đuổi
trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình.
Mỗi người cần ý thức được rằng, học và làm theo phong cách
tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo của Bác là góp phần nâng cao năng lực, trình
độ; là trách nhiệm, nghĩa vụ của mỗi cán bộ, đảng viên và nhân dân trước vận
mệnh lịch sử và quốc gia - dân tộc; là góp phần hiện thực hóa tầm nhìn, mục
tiêu phát triển đất nước; nhằm xử lý, giải quyết tốt nhất, hiệu quả nhất yêu
cầu của công việc, tránh bệnh rập khuôn, máy móc, giáo điều. Đó cũng là quá
trình rèn luyện, phấn đấu, hoàn thiện bản thân của mỗi người, từ đó lan tỏa,
tạo thành sức mạnh tổng hợp nhằm thực hiện cho được khát vọng sánh vai với các
cường quốc năm châu như mong ước, tâm nguyện của Bác Hồ.
Hai là, đẩy mạnh
công tác giáo dục, tuyên truyền trong toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, đến mỗi
cán bộ, đảng viên về giá trị, ý nghĩa, tầm quan trọng của việc học tập và làm
theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh nói chung, phong cách tư duy độc
lập, tự chủ, sáng tạo của Bác nói riêng. Việc giáo dục, tuyên truyền cần được
tổ chức thường xuyên, liên tục với nội dung phong phú, sinh động, cách thức,
biện pháp đa dạng, gần gũi, bình dị, phù hợp với trình độ nhận thức của những
đối tượng khác nhau. Chỉ khi nào mỗi tổ chức đảng, cơ quan, đơn vị, cán bộ,
đảng viên và nhân dân nhận thức được vai trò, ý nghĩa, tầm quan trọng của việc
học và làm theo phong cách tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo của Bác, thì khi
đó, phong cách ấy mới trở thành ý thức tự giác thường trực trong mỗi tập thể và
cá nhân.
Cần sử dụng nhiều kênh, hình thức, công cụ khác nhau để
tuyên truyền, giáo dục cán bộ, đảng viên và nhân dân, như qua sách, báo, tạp
chí, phát thanh - truyền hình; qua học tập, quán triệt, triển khai thực hiện
nghị quyết; qua hội thảo, tọa đàm, sinh hoạt chuyên đề, các cuộc thi, khảo sát
thực tế, tìm hiểu tư tưởng và cuộc đời hoạt động của Người. Tùy thuộc vào đặc
điểm, tình hình của mỗi cơ quan, đơn vị, địa phương, vào đối tượng, thời điểm
cụ thể mà có hình thức giáo dục, tuyên truyền sinh động, phù hợp, kết hợp các
hình thức đó với nhau… Cần nhận thức được rằng, học và làm theo phong cách tư
duy của Bác không phải là những điều gì trừu tượng, cao siêu, mà rất cụ thể,
thiết thực, ai cũng có thể học tập và noi theo.
Ba là, học và
làm theo phong cách Hồ Chí Minh nói chung, phong cách tư duy Hồ Chí Minh nói
riêng phải trở thành một nội dung, yêu cầu bắt buộc, là một trong những tiêu
chuẩn, tiêu chí để đánh giá, bình xét, xếp loại thi đua - khen thưởng, phân
loại đảng viên, tổ chức đảng hằng năm; là nội dung sinh hoạt thường xuyên của
chi bộ, gắn với các cuộc vận động, phong trào thi đua yêu nước, với việc thực
hiện nhiệm vụ chính trị và giải quyết các vấn đề bức xúc, nổi cộm ở từng địa
phương, cơ quan, đơn vị. Học và làm theo tư tưởng, đạo đức và phong cách của
Bác nói chung, phong cách tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo của Người nói riêng
phải là nghĩa vụ, bổn phận bắt buộc đối với mọi cán bộ, đảng viên và phải được
quy định thành chế độ, quy chế cụ thể./.
-----------------------------------
(1), (2) Đặng Xuân Kỳ (Chủ biên): Phương pháp và phong cách Hồ Chí Minh,
Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2010, tr. 153, 165
(3)
Lê-nin: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, t. 4, tr. 232
(4) Hồ
Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t.
1, tr. 510
(5) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 3, tr. 117
(6)
Xem: Dự thảo các văn kiện trình Đại hội XIII của Đảng (tài
liệu sử dụng tại Đại hội chi bộ, đảng bộ cơ sở), Hà Nội, 2020, tr. 12
TS. Nguyễn Văn Chung, Phùng Văn Khiêm
(Theo Tạp chí Cộng sản)
Đang truy cập: 101
Hôm nay: 57
Tổng lượt truy cập: 1,197,602