Chiến dịch Biên giới 1950 đã được các nhà nghiên cứu lịch sử quân sự nhiều lần đề cập, nhiều hội thảo được tổ chức trong các dịp kỷ niệm. Nhưng có một hình ảnh mang vẻ đẹp thời đại, là sự có mặt của Chủ tịch Hồ Chí Minh ngay trên chiến địa cùng quân dân đối mặt với kẻ thù. Hình ảnh lẫm liệt giữa chiến trường ấy được nghệ sĩ nhiếp ảnh Vũ Năng An chụp lúc Bác Hồ đang có mặt ngay tại mặt trận Đông Khê vào sáng ngày 16/9/1950.
Bác
Hồ tại mặt trận Đông Khê-chiến dịch Biên giới 1950. Ảnh: Vũ Năng An (LĐD chụp lại)
Lịch
sử thế giới hiện đại rất hiếm thấy một nguyên thủ quốc gia trực tiếp ra chiến
trường như thế và với hai cuộc kháng chiến vệ quốc của Việt Nam, chiến dịch
Biên giới là chiến dịch đầu tiên, cũng là chiến dịch duy nhất Chủ tịch Hồ Chí Minh
trực tiếp ra mặt trận chỉ đạo, động viên quân và dân chiến đấu!
Những
tháng ngày này, khi câu chuyện về học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong
cách của Người thì hình ảnh đó, một lần nữa mang một thông điệp thời sự. Và năm
2020, năm của dịp kỷ niệm 70 năm chiến dịch Biên giới lịch sử, chúng tôi lại
tìm về ngọn núi ngày xưa, tìm lên đỉnh cao của đài quan sát, để cận cảnh hơn với
một huyền thoại!
Câu chuyện “Bác đi chiến dịch”
Xuất
phát sớm từ Hà Nội, đầu giờ chiều, chúng tôi đã men theo tuyến đường biên giới
từ Lạng Sơn qua Cao Bằng và bằng “google map” xác định được vị trí của khu vực
núi Báo Đông thuộc xã Đức Long, huyện Thạch An, tỉnh Cao Bằng. Chu Mã Thị Nguyệt,
hướng dẫn viên của khu di tích chiến thắng chiến dịch Biên giới 1950 nhìn chúng
tôi và tỏ ra ái ngại: Không biết các anh có đủ sức leo lên đỉnh và xuống kịp
không. Mấy anh em chúng tôi đồng thanh: Không lên được đỉnh núi ấy thì làm sao
viết được câu chuyện này! Quả thực, gần 1.000 bậc đá không phải là điều gì ghê
gớm, nhưng các bậc đá vừa cao lại vừa dốc. Và như hướng dẫn của Nguyệt, không
thể chủ quan được. Lên được hai phần ba quãng đường thì vài thành viên trong
nhóm có dấu hiệu bị choáng. Thật bất ngờ, khi lên gần đến đỉnh, một hang đá hiện
ra. Đó là “Ngườm Cuông” - hang Cuông theo cách gọi của đồng bào Tày Nùng. Chui
qua vòm hang, qua phía bên kia vách núi, một khoảng không gian mênh mông mở ra.
Ngay
trước cửa hang, tấm bia đá khắc bài thơ “Đăng sơn” của Bác Hồ được viết trong
chính ngày Bác lên đỉnh núi quan sát và chỉ huy trận địa. Từ vị trí đặt tấm
bia, men theo sườn núi cheo leo hiểm trở thêm vài trăm bậc đá nữa mới có thể tiếp
cận được đài quan sát ngày xưa. Ngay chính vị trí mà ông Vũ Năng An chụp bức ảnh
lịch sử về Bác, một cụm tượng đài được tái hiện đúng theo chi tiết trong ảnh:
Bác ngồi giữa, người cầm điện thoại là chiến sĩ tên Minh, trưởng đài quan sát
Phạm Chước (Phạm Bá Kiên) đang cầm ống nhòm, đội trưởng đội cận vệ Võ Viết Định,
ngồi bên cạnh Bác, phía sau là ba chiến sĩ của đài quan sát.
Thiếu
tướng tình báo Cao Pha, thời điểm đó là trưởng ban quân báo của chiến dịch Biên
giới 1950 kể lại: “Anh Văn (Đại tướng Võ Nguyên Giáp) đã chỉ đạo cho ban quân
báo mặt trận đưa Bác lên đài quan sát. Hôm sau Bác đến Sở chỉ huy dưới chân
núi, trưởng đài quan sát Phạm Chước được lệnh dẫn dường đưa Bác lên. Thú thật
sau gần 70 năm, đường đi có bậc đá mà chúng tôi cảm giác tức ngực khi leo lên
đây, thì ngày ấy, đường lên núi còn gian nan đến đâu?
Trưởng
đài quan sát mặt trận Đông Khê, ông Phạm Chước sau này nhớ về sự kiện này: “Lúc
đó vào khoảng 10 giờ sáng, cuối thu năm 1950. Trên đài quan sát mặt trận Đông
Khê, bốn chiến sĩ trinh sát chúng tôi đang khẩn trương làm việc thì từ đầu dây
liên lạc bên kia vang lên giọng nói chắc gọn của đồng chí Cao Pha, Cục phó Cục
Quân báo. “Đồng chí Chước, về ngay chỉ huy sở, có việc cần!”. Tôi nhanh chóng
bàn giao công việc cho anh em, rồi vừa đi vừa chạy như bay về sở chỉ huy mặt trận.
Vừa về
tới phòng tác chiến, tôi đứng nghiêm, giờ tay chào và hết sức bất ngờ khi nhìn
thấy Bác Hồ đang cùng với đồng chí Đại tướng Tổng Tham mưu trưởng Hoàng Văn
Thái, các đồng chí cục trưởng Cục Tác chiến, Cục Hậu cần, Cục Binh vận, Cục
Quân báo, ngồi xung quanh một cái bàn lớn ở giữa phòng, trên bàn có trải tấm bản
đồ.
Sau
khi trao đổi tình hình, Bác xem đồng hồ, đứng dậy và hướng về phía tôi nói:
- Đến
giờ rồi, ta đi thôi! Chú là chủ, mời chú đi trước. Ra khỏi sở chỉ huy mặt trận
độ mười bước, Bác trùm thêm một chiếc khăn mặt bông to nhưng đã cũ lên đầu, rồi
lấy kim băng cài lại để che kín bộ râu.
-
Thưa Bác, sắp phải leo lên núi đá tai mèo rồi, Bác cởi dép đưa cháu cầm.
-
Không cần, chú cứ để mặc Bác
- Người
vừa huơ tay, vừa nói như vậy. Rồi Bác cúi xuống cầm dép lên nhét vào thắt
lưng”.
Chi
tiết Bác tự cầm dép nhét vào thắt lưng để tự leo trong hồi ức của ông Phạm Chước
sinh động quá, khiến chúng tôi muốn tìm gặp thêm các chứng nhân nay đã hiếm hoi
của chiến dịch 70 năm trước. Một trong số đó là Anh hùng lực Lượng vũ trang
nhân dân đầu tiên của Quân đội Nhân dân Việt Nam- anh hùng La Văn Cầu.
Ký ức lẫm liệt của người anh hùng đầu
tiên
Câu
chuyện anh La Văn Cầu bị thương khi xông lên, nhờ đồng đội dùng lưỡi lê cắt
cánh tay bị thương dính lủng lẳng để tiếp tục chiến đấu nhiều thế hệ học trò đã
học trong sách giáo khoa và giờ đây khi gặp anh hùng La Văn Cầu bằng xương, bằng
thịt trong căn hộ nhỏ trên phố Tây Sơn khiến chúng tôi càng hiểu vì sao, sự có
mặt của Bác Hồ giữa chiến trường ngày ấy đã truyền thêm sức mạnh cho quân dân
tham gia chiến dịch như thế nào.
“Tôi là người dân tộc Tày, sinh năm 1931, ở
Trùng Khánh, Cao Bằng” ở tuổi 88, một trong số 4 Anh hùng LLVT đầu tiên của
quân đội tiếp chuyện chúng tôi mở đầu với phong cách rất “quân sự” như thế.
“Tôi tham gia 2 chiến dịch lớn với tổng cộng hơn 25 trận đánh, trong đó trận
đánh đồn Đông Khê trong Chiến dịch biên giới Thu - Đông từ ngày 16 đến
18/9/1950 là đáng nhớ nhất, bởi cánh tay phải của tôi vĩnh viễn nằm lại chiến
trường Đông Khê”.
Hình ảnh Bác và các cán bộ, chiến sĩ
được tái hiện qua cụm tượng đài trên đỉnh núi Báo Đông. Ảnh: LĐD
Trận đánh của
70 năm trước dường như vẫn mồn một trong trí nhớ người lính anh hùng: “Bác Hồ,
bác Giáp thật là tài tình. Thời điểm năm 1950, quân địch ở Cao Bằng có một binh
đoàn với khoảng 4.000 quân, bên Lạng Sơn chúng cũng có một binh đoàn với quân
số tương tự, vũ khí thì hơn hẳn ta. Vậy làm sao có thể đánh địch mà giải phóng
Cao Bằng, Lạng Sơn được. Chính Bác đã chỉ ra kế đánh địch là “điệu hổ ly sơn”.
Bác bảo con
hổ chỉ mạnh trong rừng, còn ra ngoài thì nó không còn uy lực nữa. Quân địch
cũng thế, mình phải chọn vị trí thuận lợi để đánhđó là cứ điểm Đông Khê, nơi
giáp ranh giữa Cao Bằng và Lạng Sơn. Đánh Đông Khê thì địch từ Lạng Sơn sẽ phải
kéo lên giải cứu, địch từ Cao Bằng cũng phải kéo xuống tiếp viện… Bác Hồ bảo
đánh Đông Khê là vừa sức mình, lại hợp với cách đánh du kích, mình từ trên cao
đánh xuống thì dễ thắng hơn. Để khích lệ động viên quân lính, trước ngày đánh
đồn Đông Khê, Bác Hồ đã có thư gửi toàn thể binh lính tướng sĩ động viên rằng
trận đánh này rất quan trọng, ta phải đánh cho kỳ thắng, không được phép thua.
Đây là trận mở màn chiến dịch biên giới để giải phóng Lạng Sơn, Cao Bằng nên
trận đánh này là vô cùng quan trọng”.
“6 giờ sáng
ngày 16/9/1950, chiến dịch bắt đầu. Tôi nằm trong biên chế trung đội bộc phá
gồm 25 người, chúng tôi chia làm 5 tổ và tôi là tổ trưởng. Mỗi tổ có những
nhiệm vụ đánh bằng bộc phá vào các mục tiêu khác nhau nhưng tổ tôi là nặng
nhất, tổ bộc phá phá lô cốt, với những khối bộc phá nặng từ 12 đến 24 kg. Tối
15/9, tổ chúng tôi năm người được lệnh ốp bộc phá đánh đồn. Hai người đầu lên
thì hy sinh, còn ba người thì hết hai người bị thương nên tôi là người ôm bộc
phá tiếp cận lô cốt. Nhưng gần tới lô cốt đạn bắn trúng cánh tay phải và má
phải của tôi. Lúc đó, tôi tưởng mình đã chết. Khi tỉnh lại, một bên mình đã tê đi,
cánh tay phải lủng lẳng. Tôi vùng dậy tìm khối bộc phá. Nghĩ mình đã bị thương,
có thể sẽ chết nên đã chết thì phải chết cho có ích. Vì thế tôi dùng cánh tay
còn lại ôm bộc phá xông lên. Cánh tay phải lủng lẳng đập vào cây, vào rào thép
gai đau điếng. Trung đội trưởng Nông Văn Phiêu kéo tôi lại bảo về tuyến sau.
Tôi bảo trung đội trưởng: Anh chặt cánh tay bị thương hộ tôi, đằng nào tôi cũng
hy sinh. Trung đội trưởng không gàn được tôi nên quay mặt dùng lưỡi lê chặt đứt
cánh tay tôi rồi bó lại”.
Tổng kết
chiến dịch Biên giới, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã biểu dương chiến sĩ trẻ La
Văn Cầu là một trong những “lá cờ đầu trong phong trào giết giặc lập công”.
Tháng 5/1951, La Văn Cầu được Bác Hồ mời về chiến khu Việt Bắc để gặp Người.
Năm 1952, cùng với liệt sĩ Cù Chính Lan, Nguyễn Quốc Trị, Nguyễn Thị Chiên, La
Văn Cầu trở thành một trong bốn Anh hùng Quân đội đầu tiên của cả nước. Và thật
bất ngờ, ở tuổi 88, anh hùng La Văn Cầu vẫn được chọn để trao “Giải thưởng 10
gương mặt công dân ưu tú của Thủ đô năm 2019”.
Không chỉ từ
các nhân chứng của trận đánh 70 năm trước, mới đây, Trung tâm lưu trữ Quốc gia
I đã tìm được bản thảo của bút ký “Thẳng từ biên giới” - một ký sự sinh động và
đầy đủ nhất của nhà văn Nguyễn Huy Tưởng về chiến dịch này. Và trong những trang
ký sự vẫn âm vang hào khí của những năm kháng Pháp, vẫn nhận ra hình ảnh Bác Hồ
ở một góc khác, không chỉ xông pha ra tuyến đầu mặt trận như trong tấm ảnh của
phóng viên Vũ Năng An. Trong ký sự của nhà văn Nguyễn Huy Tưởng, Bác Hồ hiện ra
thật gần gũi và tạo nên những rung động với cảm xúc tin cậy: “Hồ Chủ tịch cũng
lên thăm mặt trận. Câu chuyện trao đi, đổi lại: Bác đi từ dưới ấy lên có tám
ngày cả thảy. Bác đi bộ... Bác đi đất, lúc nào gặp chỗ có đá nhọn mới xỏ dép,
đến chỗ dễ đi lại cho dép vào ba lô... Bác đem cả chiếu. Bác cũng đeo gạo”,
“Bác đi bộ tới giữa lúc các chú không ngờ… Bác không đứng trên diễn đàn. Bác đi
thẳng xuống bãi cỏ. Bác không đội mũ. Mặt Bác xạm phong trần. Đầu hoa râm đã
bạc nhiều”.
Lần theo hành
trình của một nguyên thủ có mặt ngay tuyến đầu của một chiến dịch lớn từ 70 năm
trước, để hiểu hơn khát vọng Người gửi lại với hôm nay!
Lê Đức Dục
(Theo Báo Quảng Trị)
Đang truy cập: 454
Hôm nay: 1,400
Tổng lượt truy cập: 1,104,240