Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã đi xa tròn 50 năm, song khát vọng và nỗ lực hoạt động của
Người trong hành trình đấu tranh vì độc lập, tự do, thống nhất đất nước vẫn trường
tồn. 50 năm sau, sức mạnh toàn dân đoàn kết - kết tinh bản lĩnh, trí tuệ, ý chí
và sức mạnh nội sinh dân tộc Việt dưới sự lãnh đạo của Đảng ta để thực hiện
thắng lợi hoài bão của Người vẫn đồng hành cùng dân tộc trên hành trình xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Bản thảo Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh
HOÀI BÃO CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ MỘT NƯỚC
VIỆT NAM HÒA BÌNH, ĐỘC LẬP VÀ THỐNG NHẤT
Độc lập, tự do, hoà bình và thống nhất
đất nước là khát vọng cháy bỏng của mọi người dân Việt Nam yêu nước; là mục
tiêu phấn đấu, thể hiện rõ trong mọi thời điểm và trong suốt cuộc đời hoạt động
cách mạng của Hồ Chí Minh. Vì vậy mà, trong những thời điểm khác nhau, phát
biểu ở các diễn đàn khác nhau, nhưng hoài bão của Người về một nước Việt Nam hòa
bình, độc lập, thống nhất đều thể hiện sự nhất quán, xuyên suốt, đó là: “Tự do
cho đồng bào tôi, độc lập cho Tổ quốc tôi, đấy là tất cả những điều tôi muốn,
đấy là tất cả những điều tôi hiểu” (12/1920); “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự
do và độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực
lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy” (9/1945);
“Kiên quyết chiến đấu đến cùng để bảo vệ những quyền thiêng liêng nhất: toàn
vẹn lãnh thổ cho Tổ quốc và độc lập cho đất nước”(1946), “Không có gì quý hơn
độc lập, tự do” (7/1966); “Tiến lên! Chiến sĩ đồng bào/Bắc Nam sum
họp/Xuân nào vui hơn” (Thơ mừng xuân 1969); “Tổ quốc ta nhất định sẽ thống
nhất. Đồng bào Nam, Bắc nhất định sẽ sum họp một nhà” (Di chúc, 1969),v.v..
Trong hành trình hoạt động cách mạng
và đấu tranh để đạt được hoài bão đó, Người đã không chỉ đến với chủ nghĩa
Mác- Lênin mà còn truyền bá chủ nghĩa Mác- Lênin về Việt Nam - vào trong
phong trào công nhân và phong trào đấu tranh yêu nước; chuẩn bị về mọi mặt
và sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam; đào tạo đội ngũ cán bộ, đảng viên vừa
hồng vừa chuyên; tập hợp, cổ vũ, động viên quần chúng nhân dân tham gia
đấu tranh cách mạng trong Mặt trận dân tộc thống nhất, trong các đoàn thể
chính trị, các hình thức hội phù hợp yêu cầu từng giai đoạn cách mạng
để nhân nguồn sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc…
Ngay sau khi ra đời ngày 3/2/1930,
trong Cương chính trị đầu tiên, Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định đường lối
cách mạng Việt Nam là trải qua hai giai đoạn: trước hết là tiến hành cách mạng
dân tộc dân chủ nhân dân, sau đó tiến lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua giai đoạn
phát triển của chế độ tư bản chủ nghĩa, thực hiện chủ nghĩa cộng sản ở nước ta.
Vì độc lập, tự do của Tổ quốc, Hồ Chí Minh và Đảng ta đã tập hợp quần chúng,
đã lãnh đạo và đưa quần chúng ra đấu tranh với tinh thần và ý chí “toàn quốc
đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”. Người đã lãnh đạo
nhân dân Việt Nam tiến hành thắng lợi cuộc cách mạng giải phóng dân tộc mùa Thu
năm 1945, sáng lập nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa; đồng thời, khẳng định:
“Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thực đã thành một nước tự
do và dân tộc. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực
lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy” trong bản
Tuyên ngôn độc lập bất hủ đọc tại Quảng trường Ba Đình ngày 2/9/1945.
Tuy nhiên, trước dã tâm xâm lược của
thực dân Pháp và trước nguy cơ mất nước một lần nữa; trân trọng giá trị thiêng
liêng của độc lập, tự do và không cam tâm làm nô lệ, với tinh thần và ý chí
“quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”, hưởng ứng lời hịch cứu nước của Người:
“Chúng ta muốn hòa bình, chúng ta phải nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân
nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng quyết tâm cướp nước ta lần nữa!”,
toàn thể nhân dân Việt Nam đã quyết tâm “thà hy sinh tất cả, nhất định không
chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”. Trong 9 năm kháng chiến chống
thực dân Pháp đầy khó khăn, thử thách ấy, không chỉ đề ra chủ trương, đường
lối đúng đắn, Người và Đảng Cộng sản Việt Nam đã phát huy sức mạnh dân tộc
và sức mạnh thời đại, cổ vũ, động viên đồng bào và chiến sĩ cả nước
kiên trì kháng chiến và kiến quốc; từng bước giành thắng lợi và và kết
thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp bằng một "Điện
Biên Phủ chấn động địa cầu".
Ngày 20/7/1954, Hiệp định Giơnevơ được
ký kết. Theo tinh thần của Hiệp định, cuộc tổng tuyển cử tự do, thống nhất hai
miền Nam - Bắc sẽ được thực hiện vào năm 1956. Tuy nhiên, thực hiện học thuyết
Trurman; lo ngại sự sụp đổ dây chuyền của khu vực Đông Nam Á bởi cộng sản, Mỹ
đã phá hoại hiệp định Giơnevơ, can thiệp vào miền Nam Việt Nam, dựng lên chính
quyền Ngô Đình Diệm, âm mưu chia cắt lâu dài đất nước Việt Nam. Vậy là, khát
vọng về một nước Việt Nam độc lập, tự do, hòa bình, thống nhất - non sông liền một
dải của Người và toàn thể nhân dân ta chưa thể trở thành hiện thực.
Tiếp tục thực hiện khát vọng độc lập,
tự do và thống nhất đất nước, để tiến hành thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mỹ,
cứu nước, Hồ Chí Minh và Đảng ta đã căn cứ vào tình hình quốc tế, trong nước,
so sánh thế và lực giữa ta và địch, nắm vững phương pháp luận của chủ nghĩa Mác
- Lênin để giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, tiến hành
đồng thời hai chiến lược cách mạng (cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân ở miền
Nam và cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc) phù hợp với điều kiện cụ
thể của đất nước.
Trong khi tiến hành chiến tranh xâm
lược Việt Nam, đế quốc Mỹ đã liên tục thay đổi các chiến lược chiến tranh ở
miền Nam, âm mưu và tìm mọi cách chia rẽ hai miền Nam - Bắc; ngày càng mở rộng
quy mô cuộc chiến tranh, tăng cường xây dựng chế độ ngụy quyền Sài Gòn, xây
dựng quân đội ngụy và tăng cường đội quân của các nước chư hầu vào tham chiến;
tăng cường đánh phá miền Bắc bằng không quân và hải quân, nhằm hủy diệt cơ sở
vật chất và tinh thần của miền Bắc xã hội chủ nghĩa. Trước tình hình và nhiệm
vụ mới, Đảng ta và Hồ Chí Minh đã một mặt nêu cao tinh thần độc lập, tự chủ
trong việc hoạch định đường lối kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, tạo sức
mạnh tổng hợp để đánh Mỹ và thắng Mỹ; đồng thời, tăng cường đoàn kết, tranh thủ
sự ủng hộ của bạn bè quốc tế, phát huy sức mạnh của dân tộc và thời đại.
Mặt khác, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, cổ vũ đồng bào và
chiến sĩ cả nước quyết tâm xây dựng, bảo vệ vững chắc hậu phương miền
Bắc, chi viện cho miền Nam đánh Mỹ; giải quyết tốt mối quan hệ giữa nhiệm vụ
xây dựng hậu phương lớn miền Bắc xã hội chủ nghĩa và đấu tranh giải phóng miền
Nam, để miền Nam ruột thịt, với vị trí là tiền tuyến lớn, trực tiếp đương đầu
với đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai luôn nhận được sự chi viện không ngừng nghỉ sức
người, sức của từ hậu phương lớn miền Bắc.
Sau phong trào Đồng Khởi 1959-1960,
cách mạng miền Nam ngày càng phát triển... Quân dân ta đã lần lượt đánh bại
hoàn toàn chiến lược “Chiến tranh đơn phương” và “Chiến tranh đặc biệt” của Mỹ
và chính quyền Sài Gòn. Trong bối cảnh đó, tháng 3/1965, Tổng thống Mỹ Johnson
đã quyết định thực hiện chiến lược “Chiến tranh cục bộ” ở Việt Nam. Tình hình
cách mạng miền Nam diễn biến hết sức phức tạp, chiến tranh lan rộng ra cả nước,
vận mệnh dân tộc đứng trước thử thách thức nghiêm trọng. Cuộc kháng chiến chống
Mỹ, cứu nước diễn ra ngày càng quyết liệt. Để khẳng định niềm tin và quyết tâm
đánh thắng Mỹ, ngày 17/7/1966, trong Lời kêu gọi chống Mỹ, cứu nước, Chủ tịch
Hồ Chí Minh khẳng định: “Chiến tranh có thể kéo dài 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc
lâu hơn nữa (…), song nhân dân việt Nam quyết không sợ! Không có gì quý hơn độc
lập, tự do”, nêu cao tinh thần và thúc giục quân dân cả nước quyết đánh thắng
giặc Mỹ xâm lược.
Bác Hồ với các anh hùng và dũng sĩ miền Nam năm 1969. Ảnh tư liệu
Trên toàn miền Nam, quân dân ta đã giành được những thắng lợi
quan trọng sau gần hai năm trực tiếp đương đầu với quân Mỹ, quân đồng minh và
quân đội Việt Nam cộng hòa. Tuy gặp nhiều tổn thất, song đế quốc Mỹ chưa chịu từ
bỏ chiến tranh xâm lược ở miền Nam. Chúng tiếp tục thực hiện chiến lược “Việt
Nam hóa chiến tranh”, leo thang chiến tranh phá hoại miền Bắc…
Trong những năm tháng đó, thực tiễn cuộc đấu tranh vì sự
nghiệp giải phóng ở miền Nam, công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và
sự chi viện về mọi mặt của hậu phương lớn miền Bắc với tiền tuyến lớn miền Nam
đã chứng minh rằng, càng mở rộng chiến tranh, đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai ngày
càng lún sâu vào “đường hầm không lối thoát”. Bởi rằng, dù đế quốc Mỹ đẩy mạnh
chiến tranh xâm lược ở miền Nam và phá hoại, hủy diệt miền Bắc xã hội chủ
nghĩa, song chúng cũng “không thể lay chuyển được chí khí sắt đá, quyết tâm chống
Mỹ, cứu nước của nhân dân Việt Nam anh hùng” với với sự đồng tâm, đồng chí, đồng
lòng của một dân tộc quyết tâm thực hiện khát vọng giải phóng miền Nam, thống
nhất Tổ quốc.
Không áp lực nào ngăn cản
được sự thật, ngăn cản được tinh thần và ý chí của nhân dân hai miền Nam- Bắc đấu
tranh cho hòa bình, độc lập, tự do và thống nhất nước nhà. Tinh thần, quyết tâm
của quân dân cả nước về nhiệm vụ giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước được
thể hiện rõ trong từng quyết sách của Trung ương Đảng, trong nghị quyết của Quốc
hội, đặc biệt trong bản Di chúc lịch sử Người để lại trước khi đi xa.
Trong Di chúc của Hồ Chí Minh, khát vọng giải phóng miền
Nam, thống nhất đất nước và niềm tin tất thắng về cuộc chiến đấu chính nghĩa của
nhân dân ta được Người nhắc đến nhiều lần, cháy bỏng hơn bao giờ hết: “Cuộc
kháng chiến chống Mỹ có thể sẽ kéo dài mấy năm nữa. Đồng bào ta có thể phải hy
sinh nhiều của nhiều người. Dù sao chúng ta phải quyết tâm đánh giặc Mỹ đến thắng
lợi hoàn toàn”; “Dù khó khăn gian khổ đến mấy, nhân dân ta nhất định sẽ hoàn
toàn thắng lợi. Đế quốc Mỹ nhất định phải rút khỏi nước ta. Tổ quốc ta nhất định
sẽ thống nhất. Đồng bào Nam Bắc nhất định sẽ sum họp một nhà”; “Cuộc chống Mỹ,
cứu nước của nhân dân ta dù phải kinh qua gian khổ, hy sinh nhiều hơn nữa, song
nhất định thắng lợi hoàn toàn. Đó là một điều chắc chắn”; “Nước ta sẽ có vinh dự
lớn là một nước nhỏ mà đã anh dũng đánh thắng hai đế quốc to là Pháp và Mỹ và
góp phần xứng đáng vào phong trào giải phóng dân tộc”…
Bản Di chúc vốn không dài; nội dung Người viết về cuộc
kháng chiến chống Mỹ, cứu nước cũng không nhiều, song chữ “nhất định” được lặp
lại trong từng câu, thể hiện khát vọng cháy bỏng và niềm tin tưởng tuyệt đối của
Người vào thắng lợi của nhân dân ta vì một nước Việt Nam hòa bình, độc lập và
thống nhất.
GIẢI PHÓNG MIỀN NAM, THỐNG NHẤT ĐẤT NƯỚC THEO DI HUẤN CỦA
NGƯỜI
Khát vọng và niềm tin của Người đã trở thành lời thề thiêng
liêng của cả dân tộc khi Chủ tịch Hồ Chí Minh đi xa. Trước anh linh của Người,
quyết tâm thực hiện hoài bão của Người, toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta thề:
“Gương cao mãi mãi ngọn cờ độc lập dân tộc, quyết chiến quyết thắng giặc Mỹ xâm
lược, giải phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc, thống nhất đất nước để thỏa lòng
mong ước của Người”.
Trong những năm sau đó, cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước
của nhân dân ta từng bước giành được thắng lợi quan trọng trên các chiến trường.
Giữa tháng 6/1972, chiến lược "Việt Nam hóa chiến tranh" của Ních xơn
thất bại nghiêm trọng và đứng trước nguy cơ bị phá sản. Trong bối cảnh đó, Mỹ
đưa B.52 đánh phá Hà Nội, Hải Phòng nhằm "phá hủy khả năng của Bắc Việt
Nam ủng hộ các lực lượng ở Nam Việt Nam". Tuy nhiên, chiến thắng của trận
“Điện Biên Phủ trên không” 12 ngày đêm cuối năm 1972 của quân dân Hà Nội đã buộc
đế quốc Mỹ phải ký Hiệp định Paris ngày 27/1/1973 về “chấm dứt chiến tranh, lập
lại hòa bình ở Việt Nam”.
“Mỹ đã cút”, nhưng để thực hiện trọn vẹn lời hứa “đánh cho
ngụy nhào”, đồng bào và chiến sĩ cả nước đã không ngừng tiến lên, kiên trì thực
hiện hoài bão của Người. Vẫn có Người bên cạnh soi đường, dẫn lối; có nguồn sức
mạnh nội lực của khát vọng hòa bình, độc lập, tự do và thống nhất được hun đúc
qua hàng ngàn năm lịch sử dựng nước và giữ nước oai hùng của dân tộc cổ vũ, động
viên, chiến dịch Tây Nguyên, chiến dịch Huế - Đà Nẵng và cuối cùng là chiến dịch
Hồ Chí Minh lịch sử đã kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước
kéo dài 21 năm của nhân dân ta. Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mùa xuân năm
1975 đã giành thắng lợi hoàn toàn, cả nước đã thống nhất, non sông liền một dải,
làm thỏa lòng mong ước của Người. Tâm nguyện của Người trong Di chúc và khát vọng
của toàn dân tộc về một nước Việt Nam thống nhất đã trở thành hiện thực.
Nhân dân Sài Gòn diễu hành mừng thành phố được giải phóng, ngày
15/5/1975. Ảnh tư liệu
50 năm sau khi Chủ tịch Hồ Chí Minh đi xa và 50 năm thực hiện
Di chúc của Người (1969-2019), toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta luôn kiên định
mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội; đoàn kết một lòng, phát
huy những bài học kinh nghiệm trong chiến tranh để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Tiếp tục thực hiện hoài bão của Người trong Di chúc: “Còn
non, còn nước, còn người, Thắng giặc Mỹ ta sẽ xây dựng hơn mười ngày nay!” và cả
nước cùng đi lên chủ nghĩa xã hội, Đảng ta không chỉ đề ra, đảm bảo sự đồng
bộ, nhất quán giữa đường lối chiến lược và chủ trương, chính sách cụ thể; giữa
chỉ đạo chiến lược và hình thức, bước đi cụ thể trong mỗi kỳ Đại hội về con đường
đi lên chủ nghĩa xã hội trong thời kỳ quá độ mà còn tiếp tục bồi dưỡng, phát
huy tinh thần yêu nước, ý chí độc lập, tự do, thống nhất đất nước của mỗi
người dân Việt Nam yêu nước trong Mặt trận Tổ quốc để nhân nguồn sức mạnh đại
đoàn kết toàn dân tộc. Vì vậy, những thành tựu về chính trị, kinh tế, văn hóa,
xã hội, quốc phòng, an ninh,v.v.. của Việt Nam, nhất là trong hơn 30 năm đổi mới
và hội nhập quốc tế là không thể phủ nhận và ngày càng được khẳng định trên trường
quốc tế.
Trong xu thế toàn cầu hóa, tình hình quốc tế và trong nước
ngày càng có những diễn biến phức tạp, với nhiều vận hội, thời cơ đi liền khó
khăn, thách thức. Các thế lực phản động, thù địch không ngừng thực hiện âm
mưu, chiến lược “diễn biến hòa bình”, với nhiều thủ đoạn mới ngày càng tinh vi
và xảo quyệt, quyết liệt và thâm độc. Trong khi đó, sự suy thoái về đạo
đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên đã làm
giảm sút niềm tin của nhân dân với Đảng, đe dọa sự tồn vong của Đảng
và chế độ,v.v.. Tinh hình và nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn mới càng phải
đòi hỏi mỗi người phải thấm nhuần sâu sắc tư tưởng của Người, thực hiện lời căn
dặn của Người về độc lập, tự do, hòa bình, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và
phát huy sức mạnh của khối toàn dân đoàn kết để dựng xây và bảo vệ non sông, gấm
vóc Việt Nam liền một dải.
Càng gian nan, thử thách, nguồn sức mạnh nội sinh của dân
tộc Việt được tạo ra bởi khối đại đoàn kết toàn dân tộc; được nuôi
dưỡng bởi ngọn nguồn văn hóa Việt Nam, bởi lịch sử anh hùng, bất
khuất qua hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước; được tiếp nối, phát
huy cao độ và thăng hoa trong thời đại Hồ Chí Minh - thời đại rực rỡ
nhất trong lịch sử dân tộc sẽ lại càng được nhân lên, kết dính bởi nhân
dân - bởi thế trận lòng dân vững chắc. Nguồn sức mạnh đại đoàn kết dân tộc
đó được trao truyền bởi bao thế hệ người Việt Nam yêu nước luôn tràn đầy khát vọng
và niềm tin chân lý “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”; được bổ sung, phát
triển không ngừng dưới sự lãnh đạo của Đảng; được chủ nghĩa Mác- Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh soi đường, dẫn lối sẽ tiếp thêm sức mạnh cho nhân dân ta
trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Vì một nước Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất và ngày
một phát triển phồn vinh “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, lời
thề năm xưa trước anh linh Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Đem hết sức mình, tiếp tục phấn
đấu thực hiện lý tưởng xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa cao đẹp mà Người
đã vạch ra cho giai cấp công nhân và nhân dân ta, đem lại phồn vinh cho đất nước,
hạnh phúc cho đồng bào” và nguyện "suốt đời học tập đạo đức, tác phong của
Người, bồi dưỡng phẩm chất cách mạng, không sợ gian khổ, không sợ hy sinh, rèn
luyện mình thành những chiến sĩ trung thành với Đảng, với dân, xứng đáng là đồng
chí, là học trò của HỒ CHỦ TỊCH. Noi gương Người, toàn thể nhân dân ta, thanh
niên ta nguyện ra sức trau dồi mình thành những con người mới, làm chủ đất nước,
làm chủ xã hội mới, mang lá cờ bách chiến bách thắng của HỒ CHỦ TỊCH tới đích
cuối cùng" sẽ trở thành mệnh lệnh trái tim, khẩu hiệu hành động của toàn
Đảng, toàn dân và toàn quân ta.
Trên tinh thần đó, mỗi cấp ủy Đảng, mỗi cán bộ, đảng viên
cần tiếp tục đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ
Chí Minh gắn với phòng, chống và ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng
chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”
theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII để luôn xứng đáng với vai trò
“là người lãnh đạo, người đày tớ thật trung thành của nhân dân” như Người mong
muốn. Mỗi cấp ủy, cán bộ lãnh đạo, quản lý, người đứng đầu và đội ngũ cán bộ, đảng
viên cần phải tự giác thực hiện Quy định 47-QĐ/TW của Ban Chấp hành Trung ương
Đảng khóa XI về “Những điều đảng viên không được làm”, Quy định 101-QĐ/TW của
Ban Bí thư khóa XI về “Trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là cán
bộ chủ chốt các cấp”, Quy định số 55-QĐ/TW ngày của Bộ Chính trị khóa XII về “Một
số việc cần làm ngay để tăng cường vai trò nêu gương của cán bộ, đảng viên”,
Quy định 08 về "Trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, trước hết là Ủy
viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư, Ủy viên Ban Chấp hành Trung
ương",v.v.. nhất là Nghị quyết 26-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương khóa
XII về “Xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ cấp chiến lược đủ phẩm chất,
năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ”, góp phần vào thành công Đại hội Đảng bộ
các cấp và Đại hội lần thứ XIII của Đảng.
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị xã hội và
các tổ chức chính trị - xã hội cần quán triệt sâu sắc tư tưởng Hồ Chí Minh, đường
lối quan điểm của Đảng về “lấy dân làm gốc” và “dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng”;
triển khai thực hiện Quyết định số 218-QĐ/TW của Bộ Chính trị quy định “Về việc
Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội và nhân dân tham gia góp ý
xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền”, Quy định 124-QĐ/TW của Ban Bí thư khóa
XII về “Giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội
và nhân dân đối với việc tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, lối sống của người đứng đầu,
cán bộ chủ chốt và cán bộ, đảng viên”,v.v.. Trong đó, Mặt trận phải thực sự thể
hiện rõ vai trò tập hợp, mở rộng, phát huy khối đại đoàn kết toàn dân tộc; đổi
mới mạnh mẽ nội dung, phương thức, tổ chức hoạt động; nâng cao hiệu quả việc tập
hợp, phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết dân tộc trên cơ sở tiếp tục phát huy
dân chủ, sức sáng tạo, ý thức tự lực, tự cường, tự hào, tự tôn dân tộc và đồng
thuận xã hội. Tăng cường khối liên minh công nhân - nông dân - trí thức làm nền
tảng cho khối đại đoàn kết toàn dân tộc; đồng thời, phát huy dân chủ, tạo điều
kiện thuận lợi và nêu cao vai trò của các cá nhân tiêu biểu, người có uy tín
trong các dân tộc, tôn giáo, người Việt Nam định cư ở nước ngoài,v.v.. để mỗi
người dân có thể phát huy khả năng sáng tạo của mình, đóng góp tích cực vào sự
nghiệp xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước ngày một phồn vinh, nhân dân được
ấm no, hạnh phúc như Hồ Chí Minh mong muốn./.
TS.
Văn Thị Thanh Mai
Ban
Tuyên giáo Trung ương
(Tạp
chí của Ban Tuyên giáo Trung ương)
Đang truy cập: 579
Hôm nay: 1,645
Tổng lượt truy cập: 1,106,273