Trình
bày tham luận tại phiên thảo luận các văn kiện Đại hội XII, đồng chí
Trần Tuấn Anh, Thứ trưởng Bộ Công Thương khẳng định: Hội nhập kinh tế quốc tế
là một chủ trương nhất quán và là nội dung trọng tâm trong chính sách đối ngoại
và hợp tác kinh tế quốc tế của Đảng ta trong quá trình đổi mới đất nước. Dưới
đây là toàn văn bài tham luận "Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc
tế, những vấn đề đặt ra cho giai đoạn tới" của đồng chí Trần Tuấn Anh.
Kính
thưa Đoàn chủ tịch Đại hội,
Kính
thưa các vị khách quý,
Kính
thưa Đại hội,
Hội
nhập kinh tế quốc tế là một chủ trương nhất quán và là nội dung trọng tâm trong
chính sách đối ngoại và hợp tác kinh tế quốc tế của Đảng ta trong quá trình đổi
mới đất nước. Thực hiện chủ trương hội nhập kinh tế quốc tế của Đảng, đất nước
chúng ta đã từng bước, chủ động hội nhập ngày càng sâu rộng vào nền kinh tế khu
vực và thế giới.
Những
kết quả đạt được trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế đã góp phần quan trọng
vào phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, nâng cao vị thế, vai trò của Việt
Nam trên trường quốc tế.
Nhìn
lại chặng đường hội nhập kinh tế quốc tế trong gần 30 năm đổi mới vừa qua,
chúng ta thấy rõ hơn những thành tựu đạt được, cùng với những thuận lợi, khó
khăn, những cơ hội, thách thức để từ đó phát huy các kết quả đã đạt được, tiếp
tục chủ động và tích cực để đạt được những thành tựu mới, vững chắc hơn trong
thời gian tới.
Với
ý nghĩa đó, tại diễn đàn Đại hội ngày hôm nay, tôi xin tham luận về chủ đề “Chủ
động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, những vấn đề đặt ra cho giai đoạn tới”
với những nội dung chính như sau:
1. Nhân tố quan trọng nhất, quyết định sự
thành công của tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế giai đoạn vừa qua là hội nhập
kinh tế quốc tế gắn liền với sự lãnh đạo của Đảng
Hội
nhập kinh tế quốc tế là một chủ trương lớn của Đảng ta, là nội dung trọng tâm của
hội nhập quốc tế và là một bộ phận quan trọng, xuyên suốt của công cuộc đổi mới.
Trong gần 30 năm đổi mới vừa qua, các chủ trương cơ bản về hội nhập kinh tế quốc
tế được nêu tại các kỳ Đại hội Đảng; Bộ Chính trị và Ban Chấp hành Trung ương
đã ban hành ba Nghị quyết chuyên đề về hội nhập kinh tế quốc tế.
Đại
hội VI mở đầu cho thời kỳ đổi mới đất nước đã đưa ra chủ trương tranh thủ những
điều kiện thuận lợi về hợp tác kinh tế và khoa học kỹ thuật, tham gia ngày càng
rộng rãi vào việc phân công và hợp tác quốc tế trong “Hội đồng tương trợ kinh tế
và mở rộng với các nước khác".
Đại
hội VII định hướng “đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ với các quốc gia, các tổ
chức kinh tế quốc tế".
Tại
Đại hội VIII, mở ra chủ trương “Xây dựng một nền kinh tế mở, hội nhập với khu vực
và thế giới”.
Đại
hội IX nhấn mạnh “chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần
phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo đảm độc lập tự
chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa”.
Ngày
27/11/2001, Bộ Chính trị khóa IX đã ban hành Nghị quyết số 07-NQ/TW
“Về hội nhập kinh tế quốc tế”.
Đại
hội X nhấn mạnh chủ trương “chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, đồng
thời mở rộng hợp tác trên các lĩnh vực khác”.
Ngày
05/02/2007, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X đã ban hành Nghị quyết
số 08-NQ/TW “Về một số chủ trương, chính sách lớn để nền kinh tế
phát triển nhanh và bền vững khi Việt Nam là thành viên của Tổ chức
Thương mại thế giới”.
Đại
hội XI đã đề ra đường lối đối ngoại của Việt Nam trong thời kỳ phát triển mới,
trong đó có chủ trương rất quan trọng là “chủ động và tích cực hội nhập quốc tế”.
Từ “hội nhập kinh tế quốc tế” của các kỳ đại hội trước, chuyển sang “hội nhập
quốc tế” một cách toàn diện là một phát triển quan trọng về tư duy đối ngoại của
Đảng ta.
Ngày
10/4/2013, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 22-NQ/TW về hội
nhập quốc tế. Đây là văn kiện quan trọng, có ý nghĩa chiến lược,
làm rõ và thống nhất nhận thức trong toàn Đảng, toàn dân về hội
nhập quốc tế trong tình hình mới. Nghị quyết đã xác định rõ hội
nhập quốc tế sẽ được triển khai sâu rộng trên nhiều lĩnh vực, đặc
biệt, hội nhập kinh tế phải gắn với yêu cầu đổi mới mô hình tăng
trưởng và tái cơ cấu nền kinh tế.
2. Thực hiện chủ trương hội nhập kinh tế quốc
tế của Đảng, Việt Nam đã hội nhập ngày càng sâu rộng, tham gia hầu hết các tổ
chức, định chế quốc tế và khu vực chủ yếu trên thế giới
- Việt
Nam gia nhập ASEAN vào tháng 7/1995. Sự kiện này được coi là một bước đột phá
về hành động trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam. Ngày
22/11/2015, các nhà Lãnh đạo ASEAN đã ký Tuyên bố Kuala Lumpur chính thức thành
lập Cộng đồng ASEAN, trong đó có Cộng đồng Kinh tế ASEAN vào ngày 31/12/2015.
Việc tham gia ASEAN và thực hiện các cam kết nhằm xây dựng Cộng đồng ASEAN sẽ
đóng góp thiết thực cho việc góp phần tạo môi trường hòa bình, ổn định cải thiện
môi trường luật pháp trong nước, tạo thuận lợi cho sản xuất kinh doanh và thu
hút đầu tư trực tiếp nước ngoài, cũng như làm cơ sở, tiền đề giúp Việt Nam tham
gia các khuôn khổ hợp tác song phương và đa phương khác.
- Việt
Nam là thành viên tham gia sáng lập và là một thành viên tích cực của Diễn đàn
hợp tác Á-Âu (ASEM) năm 1996; Việt Nam được kết nạp vào Diễn đàn hợp tác kinh tế
châu Á-Thái Bình Dương (APEC) vào năm 1998. Việt Nam đã được đánh giá là một
trong những thành viên năng động, đã có nhiều sáng kiến hợp tác và đóng góp
tích cực cho các Diễn đàn hợp tác quốc tế quan trọng này.
- Việt
Nam gia nhập Tổ chức Thương mại lớn nhất toàn cầu WTO vào tháng 01/2007,
đánh dấu sự hội nhập toàn diện của Việt Nam vào kinh tế thế giới. Với việc gia
nhập WTO, Việt Nam đã tiến hành nhiều cải cách chính sách kinh tế, thương mại,
đầu tư đồng bộ, theo hướng minh bạch và tự do hóa hơn, góp phần quan trọng cho
vỉêc xây dựng một nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam.
-
Phù hợp với xu hướng thiết lập các khu vực thương mại tự do trên thế giới, tính
đến nay, Việt Nam đã tham gia thiết lập 12 hiệp định thương mại tự do (FTA) với
56 quốc gia và nền kinh tế trến thế giới, trong đó 6 FTA do ta chủ động tham
gia ngoài khuôn khổ nội khối ASEAN hoặc với nước đối tác của ASEAN. (12 FTA Việt
Nam đã tham gia gồm: WTO, TPP, Hiệp định thương mại tự do ASEAN (AFTA),
ASEAN-Hàn Quốc, ASEAN-Nhật Bản, ASEAN-Úc-New Zealand, ASEAN-Ấn Độ, Việt
Nam-Chile, Việt Nam-Nhật Bản, Việt Nam-EU, Việt Nam-Liên minh kinh tế Á-Âu, Việt
Nam-Hàn Quốc).
- Việt
Nam đã hoàn tất đàm phán để ký kết Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương
(TPP). Đây là một Hiệp định được kỳ vọng sẽ trở thành một khuôn khổ thương mại
toàn diện, có chất lượng cao và là khuôn mẫu cho các Hiệp định thế kỷ 21. Việc
tham gia vào Hiệp định TPP sẽ giúp Việt Nam nắm bắt và tận dụng tốt hơn các cơ
hội do quá trình hội nhập kinh tế khu vực đem lại, đồng thời Việt Nam có thêm
điều kiện, tranh thủ hợp tác quốc tế để phục vụ chiến lược phát triển kinh tế-xã
hội, triển khai chiến lược hội nhập quốc tế nói chung và chiến lược đối ngoại ở
khu vực châu Á-Thái Bình Dương nói riêng.
3. Tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế về
cơ bản đã đạt được những kết quả tích cực và dài hạn trong những lĩnh vực sau:
Quá
trình hội nhập kinh tế quốc tế gần 30 năm qua đã mở ra không gian phát triển
mới cho nền kinh tế Việt Nam, mở rộng quan hệ hợp tác sâu, rộng với các quốc
gia trong khu vực và thế giới, nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế
với một số tác động tích cực chủ yếu như sau:
-
Tác động mạnh đến sự tăng trưởng, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế-xã hội,
nâng cao năng lực sản xuất, mở rộng thị trường trong một số lĩnh vực cụ thể
như: công nghiệp, thương mại, các ngành dịch vụ…; thúc đẩy tái cấu trúc nền
kinh tế, đặc biệt là chuyển dịch cơ cấu sản xuất theo hướng tích cực, phù hợp với
chủ trương công nghiệp hóa theo hướng hiện đại, theo đó tập trung nhiều hơn vào
các mặt hàng chế biến, chế tạo có giá trị và hàm lượng công nghệ và giá trị gia
tăng cao hơn; thúc đẩy thương mại, tăng thu hút đầu tư nước ngoài (FDI) và mở rộng
quan hệ hợp tác phát triển (ODA).
-
Góp phần "lan tỏa" tích cực trong nền kinh tế, nhất là tạo thêm việc
làm, các ngành có tốc độ tăng việc làm cao nhất cũng là những ngành mở cửa
nhanh hơn hoặc những ngành áp dụng công nghệ mới để cạnh tranh, tạo tài sản sản
xuất và hạ tầng như công nghệ chế tạo, xây dựng, tài chính ngân hàng, khoa học
công nghệ; tác động tích cực tới tiền lương và thu nhập của mọi tầng lớp cư
dân, tăng năng suất lao động, nâng cao năng lực cạnh tranh (quốc gia, doanh
nghiệp và sản phẩm).
- Tiếp
thu được khoa học-công nghệ mới và kỹ năng quản lý tiên tiến trên nhiều lĩnh vực:
Công nghiệp, nông nghiệp, kỹ thuật, văn hóa-xã hội… góp phần đào tạo cho Việt
Nam có được đội ngũ nguồn nhân lực có trình độ và năng lực cả về chuyên môn
lẫn quản lý.
-
Góp phần hoàn thiện thể chế trong nước trên góc độ: pháp luật và tổ chức bộ
máy, cùng với nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Tạo hiệu ứng tích cực thúc đẩy
cải cách và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường đầy đủ, hoàn thiện môi trường
kinh doanh, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh cho nền kinh tế nước ta trong
dài hạn, tạo ra môi trường kinh doanh ngày càng bình đẳng, minh bạch, dễ dự
đoán hơn và ngày càng phù hợp với chuẩn mực và thông lệ quốc tế..
-
Các doanh nghiệp Việt Nam có cơ hội tham gia chuỗi giá trị và mạng lưới sản xuất
khu vực, chuyển dịch cơ cấu sản xuất theo hướng tích cực, tập trung nhiều hơn
vào các mặt hàng chế biến, chế tạo có giá trị và hàm lượng công nghệ và giá trị
gia tăng cao hơn (Năm 2015, công nghiệp chế biến, chế tạo trở thành động lực
chính cho tăng trưởng GDP).
4. Quá trình hội nhập kinh tế quốc
tế của Việt Nam vẫn còn những khó khăn và hạn chế, ảnh hưởng đến tiến
trình cũng như hiệu quả hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam
Mặc
dù đã đạt được những thành tựu đáng khích lệ, hội nhập kinh tế quốc tế trong một
số lĩnh vực vẫn còn một số hạn chế, như:
-
Tăng trưởng xuất khẩu nhanh nhưng chưa thực sự vững chắc, chất lượng tăng trưởng
và hiệu quả xuất khẩu còn thấp, cơ cấu hàng hóa xuất khẩu tuy đã chuyển dịch mạnh
sang hàng chế biến, chế tạo, nhưng vẫn còn phụ thuộc nhiều vào doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài; nhập siêu vẫn là nguy cơ, còn không ít bất cập trong cơ
cấu nhập khẩu. Về cơ bản nền kinh tế vẫn dựa chủ yếu vào tăng trưởng thương mại,
vào khai thác tài nguyên, khoáng sản, xuất khẩu hàng nông sản thô với hàm lượng
chế biến thấp và gia công hàng hóa ở công đoạn thấp của chuỗi giá trị (dệt may,
da giày, điện tử…).
-
Năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam nói riêng và nền
kinh tế Việt Nam nói chung còn thấp, chịu sức cạnh tranh lớn từ doanh nghiệp
nước ngoài, dẫn đến một số ngành trong nước bị ảnh hưởng do tác động của việc mở
cửa thị trường, nhập khẩu tăng mạnh, song thu ngân sách từ thuế nhập khẩu bị giảm,…
Năng suất lao động tăng chậm, thu hút đầu tư vẫn dựa vào lợi thế nhân công và
chi phí mặt bằng rẻ, chi phí năng lượng thấp đã ảnh hướng nhiều đến năng lực cạnh
tranh của nền kinh tế cũng như của doanh nghiệp, sản phẩm.
- Khả
năng tích lũy vốn nhân lực và tiến bộ công nghệ của Việt Nam còn rất khiêm
tốn, biểu hiện ở mức năng suất lao động thấp và trình độ công nghệ của đa số
doanh nghiệp còn khá lạc hậu.
-
Các hoạt động hội nhập kinh tế quốc tế và mở rộng quan hệ trong các lĩnh vực
chưa được triển khai đồng bộ, nhịp nhàng trong một chiến lược tổng thế.
- Chất
lượng nguồn nhân lực và kết cấu hạ tầng chậm được cải thiện. Năng lực đội ngũ
cán bộ, công chức, doanh nhân chưa đáp ứng được yêu cầu hội nhập.
5. Đề xuất, kiến nghị về hội nhập kinh tế
quốc tế cho giai đoạn tới
Trong
thời gian tới, tình hình thế giới và khu vực còn nhiều diễn biến phức tạp, quá
trình toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế tiếp tục được đẩy mạnh. Các quốc gia
tham gia ngày càng sâu vào mạng sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu. Xuất hiện
nhiều hình thức liên kết kinh tế mới, các định chế tài chính quốc tế, khu vực,
các hiệp định song phương, đa phương thế hệ mới. Trong khi đó, Việt Nam sẽ phải
thực hiện đầy đủ các cam kết trong Cộng đồng kinh tế ASEAN và WTO, tham gia các
hiệp định thương mại tự do thế hệ mới, hội nhập quốc tế với tầm mức sâu rộng
hơn rất nhiều so với giai đoạn trước.
Trong
giai đoạn vừa qua, thực hiện chủ trương của Đảng và chỉ đạo sát sao của Chính
phủ, Bộ Công Thương đã chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành và địa phương triển
khai chủ trương của Đảng và Nhà nước về hội nhập kinh tế quốc tế; tiến hành
nghiên cứu, đàm phán và ký kết nhiều thỏa thuận kinh tế thương mại quốc tế. Từ
năm 2010 đến nay, chúng ta đã chuyển sang giai đoạn chủ động đàm phán và ký kết
các hiệp định thương mại tự do (FTA) với nhiều nước trong khu vực và thế giới,
tạo điều kiện quan trọng cho cải cách kinh tế trong nước và mở rộng thị trường
cho các doanh nghiệp, nâng cao lợi thế cạnh tranh của hàng hóa. Hơn thế nữa, kết
quả hội nhập kinh tế to lớn đó còn giúp Việt Nam thực hiện chiến lược cơ cấu lại
thị trường xuất khẩu theo hướng cân bằng hơn, thúc đẩy cải cách và tái cơ cấu nền
kinh tế, tăng cường năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, của doanh nghiệp và sản
phẩm. Do vậy, trong giai đoạn mới đòi hỏi chúng ta phải chủ động và tích cực
hơn nữa trong việc tận dụng các cơ hội của hội nhập kinh tế quốc tế mang lại,
vuợt qua các khó khăn thách thức, giảm thiểu các tác động tiêu cực của quá trình
hội nhập, cụ thể:
Về
quan điểm, đường lối
Quán
triệt Nghị quyết Đại hội XI và Nghị quyết 22-NQ/TW, chủ trương “chủ động và
tích cực hội nhập quốc tế” phải là một nội dung trọng tâm trong các kế hoạch
phát triển kinh tế-xã hội, với mục tiêu thúc đẩy và tăng cường hiệu quả hội nhập
quốc tế, góp phần xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ và phát triển bền vững;
đổi mới mô hình tăng trưởng, thúc đẩy chuyển dịch và cơ cấu lại nền kinh tế
theo hướng nâng cao khả năng cạnh tranh; tích cực tham gia sâu và rộng vào chuỗi
giá trị khu vực và toàn cầu. Trong phát triển kinh tế và thương mại, cần chú trọng
việc đổi mới công nghệ và bảo vệ môi trường, nâng cao chất lượng hàng hóa và dịch
vụ nước ta trên trường quốc tế.
Về
các giải pháp cụ thể
Một
là, các bộ, ngành và địa phương cần chủ động xây dựng các chương trình, kế hoạch
toàn diện và cụ thể thực hiện Nghị quyết 22-NQ/TW trong bối cảnh thế giới cũng
như trong nước có nhiều thay đổi lớn. Đồng thời, cần quán triệt chủ trương đúng
đắn và kịp thời của Đảng, sự chỉ đạo, điều hành của Chính phủ trong từng giai
đoạn về hội nhập quốc tế, xác định vai trò trọng tâm của hội nhập kinh tế quốc
tế trong tiến trình hội nhập trong quan điểm, nhận thức và hành động của tất cả
các các cấp, các ngành, các ngành, địa phương, toàn dân và cộng đồng doanh nghiệp;
cần có sự thống nhất mục tiêu hội nhập từ trung ương đến địa phương.
Hai
là, gắn kết giữa hội nhập kinh tế quốc tế với đẩy mạnh cải cách trong nước,
chuyển đổi mô hình tăng trưởng và tái cấu trúc nền kinh tế trong tổng thể phát
triển kinh tế-xã hội đất nước; nhằm bảo đảm tầm nhìn dài hạn về các mục tiêu
phát triển kinh tế, mục tiêu chính trị ngoại giao và mục tiêu chiến lược trong
tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Ba
là, chú trọng thực thi cam kết hội nhập kinh tế quốc tế trong bối cảnh mức độ
cam kết và tự do hóa thương mại ngày càng cao hơn, đồng thời có các điều chỉnh
thương mại trên cơ sở cam kết với các tổ chức quốc tế và khu vực để đạt được hiệu
quả cao nhất trong việc thực hiện các cam kết thương mại.
Bốn
là, hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế chính sách nhằm thực thi có hiệu quả
các cam kết hội nhập, tạo môi trường kinh doanh bình đẳng, minh bạch, ngày càng
phù hợp với chuẩn mực và thông lệ quốc tế, góp phần hoàn thiện thể chế kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Năm
là, tận dụng tối đa các cơ hội của hội nhập kinh tế quốc tế nhằm mở rộng thị
trường, thúc đẩy thương mại, đầu tư, tăng trưởng và phát triển kinh tế-xã hội;
tạo động lực thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cải thiện môi trường đầu tư
kinh doanh nhằm nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế, doanh nghiệp
và sản phẩm.
Sáu
là, tăng cường chất lượng nguồn nhân lực trong lĩnh vực hội nhập kinh tế quốc tế,
đồng thời nâng cao năng lực nghiên cứu, đánh giá và dự báo các vấn đề mới, các
xu thế vận động của hội nhập, đặc biệt trong việc thực hiện các cam kết thương
mại, các FTA ở cấp độ cao hơn để có các điều chỉnh chính sách và biện pháp phù
hợp; hoàn thiện hệ thống quản lý, điều hành thị trường đủ năng lực, hoạt động
hiệu quả để bảo vệ trị trường trong nước, duy trì môi trường cạnh tranh lành mạnh,
gắn với bảo vệ môi trường.
Kính
thưa Đại hội,
Thực
hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hoá, đa dạng hoá của Đảng,
trong đó “chủ động, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế gắn liền với xây dựng nền
kinh tế độc lập tự chủ” là chủ trương định hướng cơ bản, lâu dài cho những năm
tiếp theo trong quá trình hội nhập quốc tế, góp phần quan trọng vào mục tiêu sớm
đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại, nâng cao vị
thế, uy tín của Việt Nam trong khu vực và trên thế giới, góp phần thực hiện lời
căn dặn và mong mỏi của Chủ tịch Hồ Chí Minh là Dân tộc Việt Nam sẽ bước tới
đài vinh quang để sánh vai với các cường quốc năm châu.
Xin
chân thành cảm ơn các vị đại biểu và xin chúc Đại hội thành công tốt đẹp./.
Đang truy cập: 1234
Hôm nay: 2,198
Tổng lượt truy cập: 1,141,982