Thực hiện chủ
trương hội nhập kinh tế quốc tế của Đảng, đất nước chúng ta đã từng bước chủ
động hội nhập ngày càng sâu rộng vào nền kinh tế khu vực và thế giới. Những kết
quả đạt được trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế đã góp phần quan trọng
vào phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, nâng cao vị thế, vai trò của Việt
Việt
Tiếp tục chủ
trương chủ động và tích cực hội nhập quốc tế, ngày 10/4/2013, Bộ Chính trị đã
ban hành Nghị quyết số 22/NQ-TW về hội nhập quốc tế (Nghị quyết 22), trong đó
xác định rõ hội nhập quốc tế sẽ được triển khai sâu rộng trên nhiều lĩnh vực,
đặc biệt, hội nhập kinh tế phải gắn với yêu cầu đổi mới mô hình tăng trưởng và
tái cơ cấu lại nền kinh tế.
Đồng thời, để
thực hiện Nghị quyết 22, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 31/NQ-CP ngày
13/05/2014 về chương trình hành động của Chính phủ với các mục tiêu cụ thể trên
các lĩnh vực thông tin tuyên truyền, quán triệt Nghị quyết 22; ban hành Chỉ thị
số 15/CT-Tg ngày 07/7/2015 của Tủ tướng Chính phủ về việc tiếp tục triển khai
Nghị quyết 22. Điều này cho thấy hội nhập kinh tế quốc tế là một chủ trương
nhất quán và là nội dung trọng tâm trong chính sách đối ngoại và hợp tác kinh
tế quốc tế của Đảng ta trong quá trình đổi mới đất nước.
Trên thực tế,
giai đoạn vừa qua, Việt
Đây là các FTA
thế hệ mới với diện cam kết rộng và mức cam kết sâu. Ngoài cam kết về tự do hóa
thương mại hàng hóa và dịch vụ, các nước tham gia còn cam kết trên nhiều lĩnh
vực khác như mua sắm Chính phủ, lao động, môi trường, sở hữu trí tuệ, doanh
nghiệp nhà nước, đầu tư…
Đặc biệt, ngày
22/11/2015, các nhà Lãnh đạo ASEAN đã ký Tuyên bố Kua-la-Lum-pur chính thức
thành lập Cộng đồng ASEAN, trong đó có Cộng đồng Kinh tế ASEAN vào ngày
31/12/2015. Việc tham gia ASEAN và thực hiện các cam kết nhằm xây dựng Cộng
đồng ASEAN sẽ đóng góp phần tạo môi trường hòa bình, ổn định cải thiện môi
trường luật pháp trong nước, tạo thuận lợi cho sản xuất kinh doanh và thu hút
đầu tư trực tiếp nước ngoài, cũng như làm cơ sở, tiền đề giúp Việt Nam tham gia
các khuôn khổ hợp tác song phương và đa phương khác.
Ngoài ra, hiện
nay Việt Nam vẫn đang đàm phán một số Hiệp định bao gồm: (i) FTA Việt Nam -
Khối EFTA (Tụy Sỹ, Nauy, Ai-xơ-len và Lích-ten-xtanh); (ii) Hiệp định Đối tác
kinh tế toàn diện khu vực giữa ASEAN với 6 nước đối tác (RCEP); (iii) FTA ASEAN
- Hồng Kông. Ngoài lợi ích kinh tế, các FTA với các đối tác này cũng góp phần
làm phong phú thêm quan hệ thương mại và chính trị của Việt
Giai đoạn 2016
- 2020, theo lộ trình cam kết, phần lớn các hiệp định thương mại tự do mà Việt
Nam tham gia đều bước sang giai đoạn cắt giảm sâu, xóa bỏ hàng rào thuế quan
đối với phần lớn các dòng thuế trong biểu thuế nhập khẩu. Trong đó:
Xét về mức độ
cam kết, hầu hết các FTA mà Việt Nam đã ký kết thì mức độ tự do hóa về thuế
nhập khẩu trung bình khoảng 90% số dòng thuế, trừ Hiệp định ASEAN (ATIGA) là
Hiệp định nội khối với mức cam kết tự do hóa xấp xỉ 97%.
Xét về lộ
trình, FTA hoàn thành lộ trình sớm nhất là ATIGA (2018), tiếp đó là ACFTA
(2020) và AKFTA (2021). Hiện nay, mức độ tự do hóa thuế quan của Việt
Với EU, Việt
Nam cam kết sẽ xóa bỏ thuế quan ngay khi Hiệp định có hiệu lực với 48,5% số
dòng thuế, tương đương 64,5% kim ngạch nhập khẩu từ EU, và sau 10 năm là khoảng
99% số dòng thuế, tương đương 99,8% kim ngạch nhập khẩu từ EU. Đối với số dòng
thuế còn lại, Việt
Trong TPP,
Việt Nam cam kết xóa bỏ thuế đối với khoảng 66% số dòng thuế ngay khi Hiệp định
có hiệu lực và xóa bỏ đối với 86,5% số dòng thuế sau 3 năm Hiệp định có hiệu
lực. Các mặt hàng còn lại sẽ có lộ trình giảm thuế cơ bản từ 4 -10 năm. Một số
mặt hàng đặc biệt nhạy cảm, Việt
Tác động của hội nhập kinh tế đến kinh tế
Việt Nam
Hiện nay, phạm
vi đối tác FTA của Việt Nam đã khá rộng và toàn diện, trong 3 - 5 năm tới sẽ
chạm đến các dấu mốc quan trọng của nhiều Hiệp định và dần tiến đến tự do hóa
thuế quan hầu hết các mặt hàng nhập khẩu với các đối tác thương mại chính.
Ngoài ra, việc ký kết 2 Hiệp định và tuyên bố kết thúc 2 Hiệp định quan trọng
TPP và Việt Nam - EU sẽ tác động đáng kể đến nền kinh tế của Việt Nam trong
giai đoạn tới. Cụ thể:
Đối với xuất,
nhập khẩu: Quá trình thực hiện các cam kết cắt giảm thuế quan trong hội nhập
kinh tế quốc tế, hoàn thiện hệ thống quản lý hải quan theo tiêu chuẩn quốc tế
và cắt giảm hàng rào thuế quan đã tạo ra tác động tích cực đến hoạt động xuất
nhập khẩu của Việt
Cơ hội lớn
nhất là mở rộng thị trường nhờ cắt giảm thuế và dỡ bỏ rào cản thương mại để
tham gia sâu hơn vào chuỗi sản xuất và cung ứng toàn cầu. Nếu như năm 2007,
tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam là 111,3 tỷ USD (trong đó xuất khẩu
là 48,5 tỷ USD và nhập khẩu là 62,7 tỷ USD), thì tới năm 2015 tổng kim ngạch
xuất nhập khẩu của Việt Nam đã tăng khoảng 3 lần đạt 328 tỷ USD (trong đó nhập
khẩu là 165,6 tỷ USD và xuất khẩu là 162,4 tỷ USD).
Trong đó, các
đối tác FTA của Việt Nam đều là các đối tác thương mại quan trọng, thể hiện ở
giá trị thương mại lớn và tỉ trọng cao trên tổng số liệu thương mại với thế
giới của Việt Nam hằng năm. Tương mại của Việt
Trong thời
gian tới, khi các cam kết FTA bước vào giai đoạn cắt giảm sâu, đặc biệt các FTA
với Hoa Kỳ, EU có hiệu lực sẽ thúc đẩy xuất khẩu mạnh hơn, đem đến nhiều cơ hội
mở rộng thị trường cho hàng hóa của Việt Nam đồng thời giúp đa dạng hóa thị
trường nhập khẩu, tránh phụ thuộc vào các thị trường nguyên liệu truyền thống.
Đối với chuyển
dịch cơ cấu sản xuất hàng xuất khẩu: Hội nhập kinh tế quốc tế đã thúc đẩy tái
cấu trúc nền kinh tế, đặc biệt là chuyển dịch cơ cấu sản xuất hàng hóa xuất
khẩu theo hướng tích cực, phù hợp với chủ trương công nghiệp hóa theo hướng
hiện đại, theo đó tập trung nhiều hơn vào các mặt hàng chế biến, chế tạo có giá
trị và hàm lượng công nghệ và giá trị gia tăng cao hơn.
Năm 2015, tỷ
trọng xuất khẩu các nhóm hàng sản phẩm dệt may, giày dép, nông sản có xu hướng
giảm xuống trong khi đó tỷ trọng của các nhóm sản phẩm như máy vi tính, linh
kiện điện tử, điện thoại tăng lên, chiếm tới 27,7% tổng giá trị kim ngạch hàng
hóa xuất khẩu.
Đối với thu
hút FDI: Cùng với việc cải thiện môi trường đầu tư, hội nhập kinh tế quốc tế đã
và sẽ mở ra các cơ hội lớn đối với lĩnh vực đầu tư của Việt
Bên cạnh đó,
việc thực hiện các cam kết trong các Hiệp định thế hệ mới như TPP, EVFTA (dỡ bỏ
các biện pháp hạn chế đầu tư và dịch vụ, bảo hộ đầu tư công bằng, không phân
biệt đối xử, mở cửa thị trường mua sắm Chính phủ, dịch vụ tài chính…) sẽ khiến
cho môi trường đầu tư của Việt Nam trở nên thông thoáng hơn, minh bạch hơn,
thuận lợi hơn từ đó sẽ thu hút được nhiều vốn đầu tư hơn nữa.
Theo số liệu
từ Cục Đầu tư nước ngoài (Bộ Kế hoạch và Đầu tư), tính chung trong 12 tháng năm
2015, tổng vốn đăng ký cấp mới và tăng thêm là 22,757 tỷ USD, tăng 12,5% so với
cùng kỳ năm 2014.
Đối với thu
ngân sách nhà nước: Lộ trình cắt giảm thuế trong các FTA sẽ dẫn tới giảm nguồn
thu NSNN đối với hàng hóa nhập khẩu. Tuy nhiên, tác động của việc giảm thuế đối
với tổng thu NSNN về cơ bản là không lớn do:
(i) Mặc dù
giai đoạn 2015 - 2018, các Hiệp định thương mại đã ký kết với ASEAN, Trung
Quốc, Hàn Quốc bước vào giai đoạn cắt giảm thuế và xóa bỏ thuế quan sâu và cơ
cấu nhập khẩu của Việt Nam chủ yếu là từ các nước này, song lộ trình cắt giảm
thuế đã thực hiện từ nhiều năm, nên không có ảnh hưởng đột ngột đến nguồn thu
NSNN. Đối với TPP, nhập khẩu của Việt Nam từ các nước TPP chiếm khoảng hơn 20%
tổng kim ngạch nhập khẩu tuy nhiên, trong số 11 nước thành viên TPP, Việt Nam
đã ký kết FTA với 6/11 nước, đồng thời nhập khẩu từ 5 nước còn lại chỉ chiếm
khoảng hơn 5% tổng kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam. Vì vậy, có thể nói mức ảnh
hưởng tới thu NSNN là không nhiều.
(ii) Việc cắt
giảm thuế quan trong TPP cũng như trong các FTA sẽ khiến cho hàng hoá nhập khẩu
từ các nước đối tác chắc chắn có tăng lên và do đó, số thu từ thuế giá trị gia
tăng, thuế tiêu thụ đặc biệt đối với hàng nhập khẩu đương nhiên cũng tăng theo.
Ngoài ra, chi phí sản xuất của doanh nghiệp giảm cũng sẽ tác động tích cực đến
nguồn thu từ thuế thu nhập doanh nghiệp.
Xét về tổng
thể, hội nhập kinh tế quốc tế đã và đang đem lại nhiều cơ hội cho các doanh
nghiệp và nền kinh tế của Việt
Đối với lĩnh
vực xuất nhập khẩu: Dù hàng rào thuế quan được dỡ bỏ, song việc có tận dụng
được các ưu đãi về thuế quan để mở rộng thị trường hay không lại phụ thuộc vào
việc đáp ứng các yêu cầu về quy tắc xuất xứ cũng như các yêu cầu khác (an toàn
thực phẩm, vệ sinh dịch tễ...). Với năng lực tự sản xuất và cung ứng nguyên phụ
liệu còn hạn chế, thì những yêu cầu về quy tắc xuất xứ hàng hóa lại đang đặt ra
thách thức và mối lo ngại cho các doanh nghiệp Việt
Đối với sản
xuất trong nước: Việc tự do hóa thuế nhập khẩu sẽ dẫn đến sự gia tăng nhanh
chóng nguồn hàng nhập khẩu từ các nước, đặc biệt là từ các nước TPP, EU vào
Việt Nam do giá thành rẻ hơn, chất lượng và mẫu mã đa dạng, phong phú hơn sẽ
tác động đến lĩnh vực sản xuất trong nước.
Ngoài ra, khi
hàng rào thuế quan được gỡ bỏ nhưng các hàng rào kỹ thuật không hiệu quả, Việt
Nam sẽ trở thành thị trường tiêu thụ các sản phẩm chất lượng kém, ảnh hưởng tới
sức khỏe người tiêu dùng trong khi lại không bảo vệ được sản xuất trong nước.
Đặc biệt, sản
phẩm nông nghiệp và các doanh nghiệp, nông dân Việt Nam đứng trước sự cạnh
tranh gay gắt, trong khi đó hàng hóa nông sản và nông dân là những đối tượng dễ
bị tổn thương nhất trong hội nhập.
Đối với lĩnh
vực đầu tư: Việc gia tăng dòng vốn nước ngoài vào Việt Nam cũng đặt ra yêu cầu
về tăng cường năng lực của cơ quan quản lý trong việc giám sát dòng vốn ra vào,
tránh nguy cơ bong bóng hoặc rút vốn ồ ạt, để nền kinh tế có thể hấp thụ lượng
vốn một cách có hiệu quả.
Do đó, để tối
ưu hóa những tác động tích cực và giảm thiểu tác động tiêu cực của hội nhập
kinh tế đến nền kinh tế, trong thời gian tới cần thực hiện các giải pháp:
Đối với cơ quan quản lý Nhà nước:
Tăng cường
tuyên truyền cho các doanh nghiệp các thông tin về lộ trình và các cam kết hội
nhập kinh tế quốc tế của Việt
Nâng cao năng
lực giám sát thị trường tài chính nhằm kịp thời đối phó với những biến động của
dòng vốn, những ảnh hưởng lây lan từ khủng hoảng tài chính của một nước trong
khu vực.
Đối với hiệp hội ngành nghề:
Tiếp tục đẩy
mạnh vai trò cầu nối giữa doanh nghiệp và các cơ quan quản lý, tạo điều kiện
kết nối giao lưu giữa các doanh nghiệp hội viên; tăng cường phổ biến thông tin
hội nhập về pháp luật của các nước, sở hữu trí tuệ, sở hữu công nghiệp, quản lý
chất lượng, các quy tắc xuất xứ... cho doanh nghiệp hội viên; hỗ trợ doanh
nghiệp xây dựng thương hiệu.
Tổ chức các
chương trình xúc tiến thương mại - đầu tư theo thị trường, ngành hàng, lĩnh vực
kinh doanh cụ thể để nâng cao khả năng tiếp cận thị trường trong và ngoài nước
cũng như hỗ trợ doanh nghiệp tiếp thị thương hiệu của sản phẩm, doanh nghiệp
tới các thị trường xuất khẩu trọng điểm.
Triển khai các
hoạt động cung cấp và tư vấn cho các doanh nghiệp về pháp luật kinh doanh, các
kiến thức về hội nhập kinh tế quốc tế cũng như kinh nghiệm đối phó với các vụ
kiện quốc tế, các rào cản thương mại của các thị trường xuất khẩu.
Đối với doanh nghiệp:
Chủ động tìm
hiểu và nghiên cứu về thông tin, kiến thức về hội nhập kinh tế quốc tế, pháp
luật quốc tế. Mặc dù Việt Nam đã ký kết không ít các hiệp định thương mại tự do
với các nước và khu vực, song sự hiểu biết của doanh nghiệp trong nước về các FTAs
là khá hạn chế, trong khi đó các doanh nghiệp FDI lại rất chủ động và chuẩn bị
khá kỹ để đón đầu và tận dụng ưu đãi từ các FTAs.
Do vậy, việc
nghiên cứu tìm hiểu về TPP cũng như các FTAs là việc cần thiết các doanh nghiệp
nếu muốn đứng vững trong cạnh tra-nh. Bên cạnh đó cũng cần có sự hỗ trợ từ phía
Chính phủ và các hiệp hội để doanh nghiệp có thể tiếp cận các thông tin từ TPP,
FTAs một cách nhanh nhất và đầy đủ nhất.
Chủ động đầu
tư và đổi mới trạng thiết bị công nghệ theo chiều sâu nhằm nâng cao chất lượng
sản phẩm, bởi nếu không đáp ứng được các tiêu chuẩn quốc tế thì sản phẩm của
doanh nghiệp không thể cạnh tranh với các nước khác. Như vậy, dù hiệp định có
mở ra cơ hội, doanh nghiệp cũng không thể tiếp cận thị trường và tham gia vào
chuỗi cung ứng.
Chủ động lựa
chọn và thay đổi nguồn nguyên liệu đầu vào. Việc loại bỏ thuế quan cho các đối
tác trong TPP chỉ áp dụng đối với các sản phẩm hàng hóa có nguồn gốc xuất xứ
nội khối. Trên thực tế, với các FTA đã ký kết, cũng chỉ có khoảng 30% doanh
nghiệp đã tận dụng được các ưu đãi thuế quan.
Do đó, doanh
nghiệp cần phải chủ động trong việc lựa chọn nguồn gốc của các nguyên phụ liệu,
đáp ứng các tiêu chuẩn về nguồn gốc xuất xứ. Đồng thời phải thực hiện tốt như
các yêu cầu khác (vệ sinh, kiểm dịch động thực vật, hàng rào kỹ thuật…).
Nâng cao chất
lượng nguồn nhân lực, đặc biệt là lao động có tay nghề và nhân lực trình độ
cao. Bên cạnh đó, cần chủ động tạo sự liên kết gắn bó giữa các doanh nghiệp,
cùng xây dựng chiến lược phát triển thị trường nội địa và nước ngoài.
Theo Tạp chí Quản lý Ngân quỹ Quốc gia số
168 (6/2016)
Nguồn: Tạp chí Tài chính
Đang truy cập: 140
Hôm nay: 2,589
Tổng lượt truy cập: 1,142,373