Ban Tuyên giáo Trung ương ban hành Tài liệu tuyên truyền
những thành tựu nổi bật 75 năm nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
(2/9/1945 - 2/9/2020). TG trân trọng giới thiệu toàn văn bản tài liệu.

Tranh cổ động tuyên truyền kỷ niệm 75 năm Ngày Cách mạng tháng Tám thành công
và Quốc khánh nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Phần 1
NHỮNG CHẶNG
ĐƯỜNG LỊCH SỬ VÀ THẮNG LỢI VĨ ĐẠI CỦA ĐẤT NƯỚC TA TỪ NĂM 1945 ĐẾN NAY
I- Cách mạng
Tháng Tám năm 1945 thành công, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời
Năm
1858, thực dân Pháp nổ súng mở đầu cuộc xâm lược nước ta. Ngày 03/02/1930, Đảng
Cộng sản Việt Nam ra đời, lãnh đạo nhân dân cả nước đứng lên chống thực dân, đế
quốc, giành độc lập cho dân tộc. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, các cao trào cách mạng
diễn ra trên khắp cả nước với khí thế sôi nổi.
Ngày
09/3/1945, phát xít Nhật đảo chính hất cẳng Pháp. Ngay trong đêm đó, Hội nghị
Ban Thường vụ Trung ương mở rộng quyết định phát động một cao trào. Tháng
3/1945, Trung ương Đảng ra Chỉ thị “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng
ta”. Tháng 4/1945, Trung ương triệu tập Hội nghị quân sự cách mạng Bắc Kỳ, quyết
định nhiều vấn đề quan trọng, thống nhất các lực lượng vũ trang thành Việt Nam
giải phóng quân. Ngày 16/4/1945, Tổng bộ Việt Minh ra Chỉ thị tổ chức các Ủy ban
Dân tộc giải phóng các cấp và chuẩn bị thành lập Ủy ban giải phóng dân tộc Việt
Nam, tức Chính phủ lâm thời cách mạng Việt Nam. Từ tháng 4/1945 trở đi, cao
trào kháng Nhật, cứu nước diễn ra mạnh mẽ. Đầu tháng 5/1945, Bác Hồ từ Cao Bằng
về Tuyên Quang, chọn Tân Trào làm căn cứ chỉ đạo cách mạng cả nước. Tháng
8/1945, Hội nghị đại biểu toàn quốc của Đảng họp tại Tân Trào (Tuyên Quang) khẳng
định: “Cơ hội rất tốt cho ta giành độc lập đã tới” và quyết định phát động toàn
dân khởi nghĩa giành chính quyền từ tay phát xít Nhật và tay sai trước khi quân
Đồng minh vào Đông Dương. Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh,
Nhân dân cả nước đồng loạt tiến hành Tổng khởi nghĩa, giành chính quyền. Chỉ
trong vòng 15 ngày cuối tháng 8/1945, cuộc Tổng khởi nghĩa đã giành thắng lợi
hoàn toàn, chính quyền trong cả nước về tay nhân dân. Ngày 2/9/1945, tại Quảng
trường Ba Đình (Hà Nội), Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ lâm thời trịnh
trọng đọc bản Tuyên ngôn độc lập, tuyên bố trước quốc dân và thế giới: Nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời (nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam).
Nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa vừa mới ra đời đã phải đương đầu với muôn vàn khó
khăn, thử thách. Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo toàn dân vừa chống thù
trong, giặc ngoài, vừa xây dựng và củng cố vững chắc chính quyền nhân dân; lãnh
đạo cuộc Tổng tuyển cử đầu tiên vào ngày 06/01/1946, xây dựng Hiến pháp dân chủ
đầu tiên (năm 1946); chăm lo xây dựng chế độ mới, đời sống mới của Nhân dân; chống
giặc đói, giặc dốt và giặc ngoại xâm; kiên quyết trấn áp các thế lực phản cách
mạng, thực hành sách lược khôn khéo, lúc thì tạm hòa hoãn với Tưởng để đánh thực
dân Pháp xâm lược, lúc thì hoà với Pháp để đuổi Tưởng, triệt để lợi dụng mâu
thuẫn trong hàng ngũ kẻ thù, đưa cách mạng vượt qua những thử thách hiểm nghèo,
tranh thủ thời gian để củng cố lực lượng, chuẩn bị cho cuộc kháng chiến không
thể tránh khỏi.
Tháng
12/1946, trước dã tâm xâm lược nước ta một lần nữa của thực dân Pháp, Đảng và
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phát động toàn quốc kháng chiến với quyết tâm: “Chúng
ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu
làm nô lệ”. Với đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kỳ kháng chiến;
vừa kiến quốc, vừa kháng chiến, dựa vào sức mình là chính, đồng thời tranh thủ
sự đồng tình và ủng hộ của bạn bè quốc tế, Đảng đã lãnh đạo Nhân dân ta lần lượt
đánh bại các kế hoạch chiến tranh của thực dân Pháp, đỉnh cao là chiến thắng lịch
sử Điện Biên Phủ lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu, kết thúc thắng lợi cuộc
kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Với thắng lợi này, chúng ta đã bảo vệ
và phát triển thành quả của Cách mạng Tháng Tám, đưa cách mạng Việt Nam chuyển
sang giai đoạn mới: xây dựng miền Bắc theo con đường chủ nghĩa xã hội và tiếp tục
tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc ở miền Nam, thống nhất đất nước.
II- Kháng
chiến chống Mỹ, cứu nước, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước
Cuộc
kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta trải qua gần 21 năm, là cuộc
kháng chiến lâu dài, gian khổ và nhiều thách thức, ác liệt với nhiều giai đoạn
đối phó với các kế hoạch, chiến lược khác nhau của đế quốc Mỹ.
Giai
đoạn từ tháng 7/1954 đến hết năm 1960: Đế quốc Mỹ trắng trợn phá hoại Hiệp định
Giơnevơ, dựng lên chính quyền tay sai Ngô Đình Diệm, thực hiện chính sách thực
dân mới, âm mưu chia cắt lâu dài đất nước ta. Mỹ - Diệm đã tiến hành các chiến
dịch đàn áp dã man các phong trào yêu nước, tiến bộ ở miền Nam, dìm cách mạng
miền Nam trong biển máu. Đứng trước tình thế mới, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã lãnh đạo quân và dân cả nước thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược:Một
là, tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, xây dựng miền Bắc thành
căn cứ cách mạng vững mạnh của cả nước; Hai là, cách mạng dân tộc dân chủ nhân
dân ở miền Nam nhằm giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc Mỹ và
tay sai, thực hiện thống nhất nước nhà. Thực hiện nhiệm vụ trên, miền Bắc tích
cực triển khai những công việc bộn bề sau chiến tranh, nhanh chóng tổ chức cuộc
sống mới; bước đầu xây dựng, phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội theo con đường
đi lên chủ nghĩa xã hội. Ở miền Nam, cuộc đấu tranh diễn ra vô cùng khó khăn,
ác liệt. Trong bối cảnh đó, từ ngày 13 đến ngày 21/01/1959, Hội nghị lần thứ 15
Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa II đã họp (mở rộng) và ban hành Nghị quyết về
nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam trong giai đoạn mới, theo đó đã định hướng và động
viên nhân dân miền Nam vùng lên đấu tranh, tạo ra phong trào Đồng khởi (1959 -
1960), thúc đẩy cách mạng miền Nam tiến lên.
Giai
đoạn từ đầu năm 1961 đến giữa năm 1965: Từ cuối năm 1960, đế quốc Mỹ tiến hành
chiến lược chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” đối phó với cách mạng miền Nam. Cuộc
đấu tranh của nhân dân miền Nam chuyển sang giai đoạn mới, từ khởi nghĩa từng
phần lên chiến tranh cách mạng, kết hợp song song cả đấu tranh vũ trang và đấu
tranh chính trị, đánh địch bằng cả ba mũi giáp công, trên cả ba vùng chiến lược,
làm phá sản chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” của đế quốc Mỹ và tay sai. Trên
miền Bắc, các mặt trận kinh tế, văn hoá, an ninh, quốc phòng đều có bước phát
triển mới. Quân và dân miền Bắc thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ nhất, vừa sản
xuất vừa sẵn sàng chiến đấu và chi viện cho miền Nam.
Giai
đoạn từ giữa năm 1965 đến hết năm 1968: Trước nguy cơ phá sản của chiến lược
“Chiến tranh đặc biệt”, đế quốc Mỹ chuyển sang chiến lược “Chiến tranh cục bộ”,
sử dụng quân đội Mỹ là lực lượng cơ động chủ yếu tiêu diệt bộ đội chủ lực của
ta; dùng ngụy quân, ngụy quyền để bình định, kìm kẹp nhân dân, âm mưu đánh bại
cách mạng miền Nam trong vòng 25 đến 30 tháng (từ giữa năm 1965 đến hết năm
1967), đẩy mạnh chiến tranh phá hoại miền Bắc bằng không quân và hải quân. Trên
chiến trường miền Nam, quân và dân ta đã đánh thắng quân xâm lược Mỹ ngay từ những
trận đầu khi chúng vừa đổ bộ vào. Quân dân miền Bắc tiếp tục đánh trả cuộc tiến
công của Mỹ bằng không quân và hải quân, giành những thắng lợi lớn trên nhiều mặt,
bảo đảm giao thông thông suốt, chi viện sức người, sức của ngày càng lớn cho miền
Nam. Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân năm 1968 đã giáng một đòn quyết
định vào chiến lược “Chiến tranh cục bộ” của đế quốc Mỹ, buộc chúng phải xuống
thang chiến tranh và ngồi vào bàn đàm phán tại Hội nghị Pari. Cuộc kháng chiến
chống Mỹ, cứu nước của dân tộc ta bước vào giai đoạn mới.
Giai
đoạn từ năm 1969 đến năm 1973: Đế quốc Mỹ thi hành chiến lược “Việt Nam hoá chiến
tranh”, từng bước mở rộng chiến tranh sang Campuchia, Lào. Quân và dân ta phối
hợp với quân, dân hai nước Lào, Campuchia đánh bại một bước quan trọng chiến lược
“Việt Nam hoá chiến tranh”; liên tiếp giành thắng lợi lớn trên chiến trường,
đánh bại cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ hai của đế quốc Mỹ ở miền Bắc, đặc
biệt là đánh thắng cuộc tập kích chiến lược bằng máy bay B.52 của Mỹ, làm thay
đổi cục diện của cuộc chiến tranh. Cuộc đấu tranh trên mặt trận ngoại giao cũng
diễn ra quyết liệt, chúng ta khôn khéo tiến công địch, phối hợp chặt chẽ giữa
“đánh và đàm”, buộc Mỹ ký Hiệp định Pari về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa
bình ở Việt Nam ngày 27/01/1973.
Giai
đoạn từ cuối năm 1973 đến ngày 30/4/1975: Sau khi ký Hiệp định Pari, mặc dù buộc
phải rút hết quân nhưng đế quốc Mỹ vẫn tiếp tục âm mưu dùng ngụy quân, ngụy quyền
làm công cụ để thực hiện chủ nghĩa thực dân mới ở miền Nam Việt Nam. Phong trào
cách mạng phát triển mạnh trên khắp miền Nam. Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy
mùa Xuân năm 1975 là trận quyết chiến, chiến lược vĩ đại của quân và dân ta, với
chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử toàn thắng đã kết thúc 21 năm kháng chiến chống
đế quốc Mỹ xâm lược của nhân dân Việt Nam, đất nước ta sạch bóng quân xâm lược,
non sông thống nhất.
III- CÔNG
CUỘC ĐỔI MỚI, HỘI NHẬP QUỐC TẾ
1.
Trong 21 năm (1954 - 1975), đế quốc Mỹ đã tiếp sức cho chế độ ngụy quyền tay
sai, xâm lược miền Nam Việt Nam, đồng thời phát động chiến tranh phá hoại với
âm mưu hủy diệt miền Bắc. Hàng loạt khó khăn khi tổ chức cuộc sống mới và giải
quyết những vấn đề như tìm kiếm hài cốt liệt sỹ, thực hiện chính sách với
thương, bệnh binh, liệt sỹ, người có công với cách mạng, thanh niên xung phong;
trẻ em khuyết tật, bị di chứng chiến tranh, đồng bào vùng sâu, vùng xa, vùng
căn cứ kháng chiến.
Đất
nước vừa trải qua hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược,
hậu quả chiến tranh chưa kịp hàn gắn thì lại liên tiếp bước vào cuộc chiến đấu
bảo vệ biên giới (Tây Nam, phía Bắc năm 1979). Các cuộc chiến đấu này tuy không
kéo dài nhưng đã gây tổn thất, ảnh hưởng đến kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội
và quan hệ đối ngoại.
Sau
chiến tranh giải phóng miền Nam, nguồn viện trợ không hoàn lại của quốc tế cho
Việt Nam giảm hẳn và không còn; cùng với đó là chính sách thù địch, bao vây, cấm
vận của Mỹ, đặt nước ta vào tình thế bị cô lập với thế giới. Thời gian 10 năm
trước đổi mới, đã có không ít các hoạt động phá hoại, những âm mưu bạo loạn và
lật đổ, những kích động và chia rẽ hận thù dân tộc, tất cả đều có sự tiếp sức của
các thế lực phản động bên ngoài. Tình hình phức tạp nảy sinh sau chiến tranh
cùng với những hậu quả chiến tranh chưa giải quyết xong đã tác động sâu sắc vào
đời sống xã hội, tạo ra khủng hoảng kinh tế - xã hội ở nước ta những năm 1980,
trước thềm công cuộc đổi mới.
2.
Trong những năm 80 của thế kỷ XX, tình hình thế giới và trong nước có nhiều biến
đổi to lớn. Hội nhập quốc tế trở thành vấn đề sống còn của mọi quốc gia, dân tộc.
Mô hình xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, tạo nên cú sốc chính trị
chấn động nhân loại trong thế kỷ XX. Ở trong nước, chúng ta vừa ra khỏi cuộc
chiến tranh, lại bị thế bao vây cấm vận thù địch, đất nước rơi vào cuộc khủng
hoảng trầm trọng về kinh tế - xã hội. Trước bối cảnh đó, Đảng ta đã tỏ rõ bản
lĩnh của mình, chủ động khởi xướng và lãnh đạo công cuộc đổi mới. Đại hội VI của
Đảng đã đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa
xã hội ở nước ta, tạo ra đột phá lớn và toàn diện, đem lại luồng sinh khí mới
cho xã hội, làm xoay chuyển tình hình, đưa đất nước tiến lên.
Thành
công của sự nghiệp đổi mới gần 35 năm, không những giữ vững ổn định chính trị,
giữ vững con đường đi lên chủ nghĩa xã hội trong bối cảnh chính trị thế giới hết
sức phức tạp, đầy biến động mà còn đem lại những thành tựu quan trọng cho đất
nước. Từ một nước trước đổi mới còn khủng hoảng, trì trệ, lưu thông phân phối
ách tắc, rối ren, hàng hóa, vật phẩm tiêu dùng khan hiếm, đời sống các tầng lớp
nhân dân gặp nhiều khó khăn, một bộ phận nhân dân nao núng, giảm sút niềm tin;
sau đổi mới, đã thành một Việt Nam năng động, phát triển, chuyển đổi thành công
sang mô hình và cơ chế quản lý kinh tế mới, có mức tăng trưởng kinh tế cao,
liên tục trong nhiều năm, vị thế, uy tín, quan hệ ngoại giao ngày càng rộng mở
và nâng cao, được đánh giá là quốc gia có môi trường chính trị ổn định, an ninh
và an toàn, là địa chỉ tin cậy cho các nhà đầu tư quốc tế.
Phần 2
THÀNH TỰU
NỔI BẬT CỦA ĐẤT NƯỚC SAU 75 NĂM XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN (1945 - 2020)
I- CHÍNH
TRỊ
1. Một quốc
gia có chế độ chính trị độc lập, có chủ quyền lãnh thổ và tự quyết định con đường
phát triển của mình
Cách
mạng Tháng Tám năm 1945 thành công mở ra bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử dân tộc
Việt Nam. Ngày 2/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản
Tuyên ngôn độc lập, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, một chính thể dân
chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam châu Á, chấm dứt chế độ phong kiến ở Việt Nam,
kết thúc hơn 80 năm ách đô hộ của thực dân, phátxít. Nhân dân Việt Nam từ thân
phận nô lệ trở thành người dân một nước độc lập, làm chủ vận mệnh của mình. Nước
Việt Nam từ một nước thuộc địa nửa phong kiến trở thành một nước độc lập, tự do
và dân chủ, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Từ đây, đất nước, xã hội,
dân tộc và con người Việt Nam bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên độc lập dân tộc
gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Ngày
06/01/1946, cuộc Tổng tuyển cử bầu Quốc hội đầu tiên đã diễn ra trên cả nước.
Cuộc Tổng tuyển cử được tiến hành theo những nguyên tắc dân chủ, tiến bộ nhất,
bầu ra được 333 đại biểu. Quốc hội đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
ra đời. Thắng lợi của cuộc Tổng tuyển cử mở ra một thời kỳ mới, đất nước ta có
Quốc hội, Chính phủ, bản Hiến pháp tiến bộ và hệ thống chính quyền đầy đủ danh
nghĩa về mặt pháp lý để đại diện cho nhân dân Việt Nam về cả đối nội và đối ngoại.
Cuộc
kháng chiến chống Mỹ, cứu nước thắng lợi, miền Nam hoàn toàn giải phóng, đất nước
được thống nhất. Hội nghị lần thứ 24 Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp tháng
9/1975 đề ra nhiệm vụ hoàn thành thống nhất đất nước về mặt nhà nước. Ngày
25/4/1976, cuộc Tổng tuyển cử bầu Quốc hội chung được tổ chức trên toàn quốc với
hơn 23 triệu cử tri (98,8% tổng số cử tri) đi bầu. Quốc hội quyết định lấy tên
nước là Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (từ ngày 02/7/1976). Quốc kỳ là lá cờ
đỏ sao vàng, Quốc ca là bài Tiến quân ca, Quốc huy là “Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam”. Hà Nội là Thủ đô của nước Việt Nam thống nhất. Thành phố Sài
Gòn đổi tên thành Thành phố Hồ Chí Minh. Việc hoàn thành thống nhất đất nước về
mặt nhà nước đã tạo nên những điều kiện chính trị cơ bản để phát huy toàn diện
sức mạnh phát triển đất nước, tạo điều kiện thuận lợi để cả nước đi lên chủ
nghĩa xã hội, có những khả năng to lớn để bảo vệ Tổ quốc và mở rộng quan hệ với
các nước trên thế giới.
2. Nhận thức
về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ngày càng sáng tỏ
Ngay
từ khi ra đời (tháng 2/1930), Đảng ta đã xác định rõ con đường phát triển của
cách mạng Việt Nam là con đường xã hội chủ nghĩa. Cương lĩnh chính trị đầu tiên
được Hội nghị thành lập Đảng thông qua đã nêu rõ mục tiêu chiến lược của cách mạng
Việt Nam là: “Làm cho nước Nam được hoàn toàn độc lập”, “để đi tới xã hội cộng
sản” 2. Luận cương chính trị tháng 10/1930 nhấn mạnh con đường phát triển của
cách mạng Việt Nam “bỏ qua thời kỳ tư bổn mà tranh đấu thẳng lên con đường xã hội
chủ nghĩa” 3. Cách mạng Tháng Tám năm 1945 do Đảng Cộng sản và Lãnh tụ Hồ Chí
Minh lãnh đạo đã xóa bỏ chế độ thuộc địa, chấm dứt chế độ phong kiến, mở ra thời
đại mới của dân tộc Việt Nam - Thời đại độc lập dân tộc, nhân dân được làm chủ
xã hội và cuộc sống. Luận cương cách mạng Việt Nam được Đại hội II của Đảng
(tháng 2/1951) thông qua đã xác định phương hướng và những điều kiện để tiến
lên chủ nghĩa xã hội.
Đại
hội VI của Đảng (Tháng 12/1986) đề ra đường lối đổi mới toàn diện dựa trên điều
kiện, hoàn cảnh đất nước và nhận thức rõ hơn những vấn đề của thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội, những luận điểm của V.I.Lênin và Hồ Chí Minh; tổng kết những
bài học lớn có giá trị lý luận và chỉ đạo thực tiễn. Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ VI, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội do Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII đề ra (Tháng 6/1991) và Cương
lĩnh (bổ sung, phát triển) năm 2011 được thông qua tại Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ XI là quá trình không ngừng phát triển nhận thức về chủ nghĩa xã hội và
con đường xã hội chủ nghĩa dựa trên cơ sở tổng kết thực tiễn đổi mới của Việt
Nam.
Từ
tám đặc trưng của mô hình xã hội chủ nghĩa được xác định trong Cương lĩnh xây dựng
đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm
2011), Đảng đã nhận thức sâu sắc hơn nội hàm của từng đặc trưng và mối quan hệ
thống nhất biện chứng giữa các đặc trưng, nổi bật là nhận thức về dân chủ xã hội
chủ nghĩa, vai trò và quyền làm chủ của nhân dân; về vị trí trung tâm của kinh
tế - xã hội, về phát triển kinh tế nhanh và bền vững, chú trọng hiệu quả, chất
lượng, sức cạnh tranh của nền kinh tế; về vai trò nền tảng tinh thần, nguồn lực
nội sinh của văn hóa, vai trò chủ thể, động lực phát triển của con người; về
vai trò, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc; về sự gắn bó dân tộc và nhân loại,
quốc gia và quốc tế. Đảng ta cũng nhận thức sâu sắc hơn thời cơ, thách thức đối
với đất nước để xác định các bước đi, thiết kế các hình thức tổ chức kinh tế,
xã hội quá độ phù hợp với yêu cầu, điều kiện của từng giai đoạn.
Bám
sát tám phương hướng trong Cương lĩnh bổ sung, phát triển năm 2011, Đảng ta đã
cụ thể hóa, bổ sung, làm sáng tỏ hơn phương hướng phát triển đất nước. Công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước được tiếp cận theo tư duy mới gắn với đổi mới
mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế; nhấn mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa nông nghiệp gắn với xây dựng nông thôn mới; chú trọng chất lượng, hiệu quả,
sức cạnh tranh; phát triển nhanh, bền vững. Nhận thức về kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ngày càng được đầy đủ hơn theo hướng xây dựng nền kinh tế
thị trường đầy đủ, hiện đại, hội nhập, bảo đảm độc lập, tự chủ, đồng thời chủ động,
tích cực hội nhập quốc tế. Phương hướng xây dựng văn hóa, con người; phát triển
xã hội; bảo đảm quốc phòng, an ninh; tăng cường đối ngoại, hội nhập quốc tế; thực
hiện đại đoàn kết toàn dân tộc; dân chủ xã hội chủ nghĩa; xây dựng Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa; xây dựng và chỉnh đốn Đảng… được cụ thể hóa, bổ
sung nhận thức, ngày càng hoàn thiện và phong phú hơn.
Đảng
ta luôn nắm vững và giải quyết tốt 8 mối quan hệ lớn trong Cương lĩnh bổ sung,
phát triển năm 2011: Đổi mới, ổn định và phát triển; đổi mới kinh tế và đổi mới
chính trị; kinh tế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa; phát triển lực lượng
sản xuất và xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa;
tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội;
xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa; độc lập, tự chủ
và hội nhập quốc tế; Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ. Văn kiện
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII cụ thể hóa quan hệ “giữa kinh tế thị trường
và định hướng xã hội chủ nghĩa” thành quan hệ “giữa tuân theo các quy luật thị
trường và bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa”, bổ sung mối quan hệ giữa Nhà nước
và thị trường. Nghị quyết Trung ương 5 khóa XII phát triển mối quan hệ “giữa
Nhà nước và thị trường” thành mối quan hệ “giữa Nhà nước, thị trường và xã hội”.
Đây là sự khái quát ở tầm lý luận những vấn đề cốt lõi phản ánh quy luật vận động
của cách mạng Việt Nam thời kỳ đổi mới.
3. Thể chế, hệ thống chính trị từng bước
hoàn thiện và có bước phát triển
a) Xây dựng,
chỉnh đốn Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền của
Đảng
Xác
định rõ hơn bản chất của Đảng: Ngay từ khi mới thành lập, Đảng luôn khẳng định
là Đảng của giai cấp công nhân. Bảy mươi lăm năm qua, Đảng ta đã xác định rõ
hơn, đầy đủ hơn bản chất của Đảng, đến Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội năm 1991 và nhiều văn kiện Đảng sau đó khẳng định
Đảng ta “là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đại biểu trung thành lợi ích
của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc.
Xác
định đầy đủ hơn nền tảng tư tưởng của Đảng: Ngay từ khi thành lập, Đảng luôn lấy
chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho việc xây dựng tổ
chức và hoạt động của mình. Điều này được khẳng định đầy đủ trong văn kiện Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII: “Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng
Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động”, lấy tập trung
dân chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ bản.
Xây dựng tổ chức bộ máy của Đảng có bước chuyển
biến mạnh mẽ: Các quy định, nguyên tắc, cơ chế vận hành tổ chức bộ máy ngày
càng hoàn thiện. Các văn bản về công tác cán bộ và xây dựng đội ngũ cán bộ của
Đảng liên tục được bổ sung, được cụ thể, toàn diện, đồng bộ hơn. Bộ máy của Đảng
được đẩy mạnh sắp xếp theo hướng tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả. Việc ngăn chặn,
đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận
cán bộ, đảng viên bước đầu có kết quả.
Phương
thức lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị tiếp tục được đổi mới: Vai
trò, thẩm quyền và trách nhiệm của Đảng trong lãnh đạo hệ thống chính trị được
xác định rõ hơn. Dân chủ trong Đảng ngày càng được phát huy. Đảng ngày càng khẳng
định năng lực hoạch định đường lối, chủ trương lãnh đạo, tư duy chiến lược và
năng lực tổ chức thực hiện đường lối, chủ trương đó trong suốt tiến trình cách
mạng Việt Nam. Nhân dân ngày càng tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng.
b) Xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa
-
Quốc hội đã có những bước đổi mới quan trọng, từ khâu bầu cử đại biểu Quốc hội
đến hoàn thiện về cơ cấu tổ chức và phương thức hoạt động; tăng cường bộ phận
chuyên trách. Chế độ bầu cử đại biểu Quốc hội đã đổi mới theo yêu cầu dân chủ
và pháp quyền. Nhiều chế định mới, cách làm mới như có ứng cử viên tự do, tăng
thêm số lượng đại biểu chuyên trách, chú ý tiêu chuẩn đại biểu để nhằm nâng cao
chất lượng hoạt động của Quốc hội. Ủy ban Thường vụ Quốc hội, các Ủy ban của Quốc
hội có nhiều cải tiến nội dung, phương pháp công tác; đề cao trách nhiệm của đại
biểu Quốc hội. Chức năng, nhiệm vụ, tổ chức và cơ chế hoạt động của các thiết
chế trong bộ máy nhà nước có những đổi mới và từng bước được hoàn thiện, hoạt động
hiệu lực, hiệu quả hơn. Quốc hội hoạt động thường xuyên hơn, ngày càng dân chủ
hơn. Hoạt động giám sát và thảo luận, quyết định các vấn đề lớn của quốc gia có
chất lượng và thực chất hơn. Quốc hội đã làm tốt hơn chức năng lập pháp, ban
hành Hiến pháp năm 1992 và sửa đổi Hiến pháp vào năm 2001, ban hành Hiến pháp
2013. Chỉ tính số lượng các đạo luật, pháp lệnh được Quốc hội, Ủy ban Thường vụ
Quốc hội ban hành từ 1986 - 2016 đã gấp gần 8 lần số lượng luật, pháp lệnh ban
hành trong 41 năm về trước (483/63); trong 4 năm 2016 - 2020, Quốc hội đã ban
hành 65 luật và 99 nghị quyết, trong đó có nhiều đạo luật quan trọng nhằm cụ thể
hóa quy định của Hiến pháp năm 2013 về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản
của công dân; hoàn thiện tổ chức bộ máy nhà nước theo nguyên tắc của nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Đồng thời có một số đạo luật mới, lần đầu tiên được
Quốc hội ban hành như Luật An ninh mạng, Luật Quản lý ngoại thương, Luật phòng
chống tác hại của rượu, bia …
-
Chính phủ có những thay đổi rõ rệt từ cơ cấu tổ chức đến phương thức hoạt động.
Nguyên tắc pháp quyền trong hoạt động của các cơ quan nhà nước được tuân thủ tốt
hơn. Hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước được nâng lên. Nguyên tắc phân
công, phối hợp và kiểm soát quyền lực nhà nước từng bước được thực hiện. Cơ chế
kiểm soát quyền lực trong tổ chức và hoạt động của các cơ quan nhà nước đã có
những bước tiến nhất định. Giai đoạn 2011 - 2020, cơ cấu tổ chức, bộ máy của
Chính phủ được sắp xếp, điều chỉnh, giảm đầu mối theo hướng tổ chức các bộ quản
lý đa ngành, đa lĩnh vực. Đã giảm 3 đầu mối trực thuộc Trung ương, 61 đầu mối
trực thuộc cấp tỉnh, 485 đầu mối trực thuộc cấp huyện; giảm hơn 4.100 đơn vị sự
nghiệp công lập, gần 15.200 cấp trưởng, phó, tinh giản 97.900 biên chế. Cơ chế
hoạt động của Chính phủ cũng có sự đổi mới quan trọng, chủ yếu quản lý ở tầm vĩ
mô thông qua chính sách, kế hoạch, pháp luật. Đã tiến hành một bước cải cách
hành chính, loại bỏ nhiều thủ tục, văn bản nhũng nhiễu, gây phiền hà. Công tác
thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo, phòng, chống tham nhũng,
lãng phí được đẩy mạnh và đạt nhiều kết quả; trong đó đã tập trung chỉ đạo, xử
lý nghiêm và công khai kết quả xử lý nhiều vụ việc tham nhũng, góp phần củng cố
niềm tin trong nhân dân. Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
đang dần được hoàn thiện theo hướng hiện đại, đồng bộ và hội nhập.
-
Hệ thống các cơ quan tư pháp đã có những bước cải tiến theo yêu cầu dân chủ và
pháp quyền. Chức năng, nhiệm vụ, phương thức hoạt động của các cơ quan tư pháp
ngày càng được phân định rõ ràng hơn. Tổ chức bộ máy Tòa án nhân dân tối cao và
cấp tỉnh có một số điều chỉnh; lập mới các tòa án chuyên trách (như tòa kinh tế,
tòa lao động, tòa hành chính). Tổ chức bộ máy của Viện Kiểm sát nhân dân tối
cao có điều chỉnh theo hướng tập trung thực hiện chức năng công tố, chức năng
giám sát, giải quyết các vụ án hành chính, kinh tế, lao động và phá sản doanh
nghiệp. Trong xét xử đã có quy trình khoa học hơn, nâng cao hiệu quả tranh tụng,
coi trọng vai trò của luật sư. Việc tăng thẩm quyền cho tòa án cấp huyện, nâng
cao chất lượng tranh tụng tại phiên tòa, đề cao vai trò của luật sư trong tố tụng
được thực hiện bước đầu có hiệu quả. Việc thực hiện các thủ tục tố tụng ngày
càng tốt hơn, hạn chế được tình trạng điều tra, truy tố, xét xử oan, sai hay bỏ
lọt tội phạm. Chất lượng hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án được
nâng lên.
-
Chính quyền địa phương có bước chuyển rõ nét theo yêu cầu của xây dựng Nhà nước
pháp quyền. Đã sửa đổi Luật về Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân; đã thực hiện
một bước phân cấp theo hướng mở rộng và tăng quyền hạn cho chính quyền địa
phương. Hoạt động của chính quyền địa phương cũng đã đổi mới, giảm bớt hình thức
và đi vào thực chất, thiết thực và dân chủ hơn. Hội đồng nhân dân có vai trò lớn
trong việc thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở. Ủy ban nhân dân các cấp thích
nghi dần với những yêu cầu quản lý mới trong điều kiện kinh tế thị trường.
c) Đổi mới tổ chức bộ máy, nội dung và
phương thức hoạt động của các tổ chức chính trị xã hội
Hệ
thống tổ chức của Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị - xã
hội được đổi mới; chức năng, nhiệm vụ, mối quan hệ công tác của từng tổ chức được
phân định, điều chỉnh hợp lý hơn, từng bước đáp ứng yêu cầu xây dựng, hoàn thiện
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và phát triển kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa. Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân phát huy tốt hơn
vai trò tập hợp, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc; củng cố, mở rộng tổ
chức, phát triển đoàn viên, hội viên, tổ chức nhiều phong trào thi đua, nhiều
cuộc vận động có hiệu quả thiết thực, cùng Nhà nước chăm lo, bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân, tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội,
góp phần tích cực vào những thành tựu của đất nước.
4. Dân chủ
xã hội chủ nghĩa ngày càng được phát huy
Những
đổi mới trong từng bộ phận cấu thành hệ thống chính trị và mối quan hệ qua lại
giữa các bộ phận đã góp phần quan trọng vào việc phát huy dân chủ xã hội. Đã chế
định ngày càng đầy đủ hơn thiết chế và cơ chế thực thi dân chủ. Thực hiện dân
chủ đại diện và dân chủ trực tiếp có những chuyển biến tích cực. Dân chủ trong
các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, hoạt động khoa học có những kết
quả nổi bật đã góp phần làm cho dân chủ trong xã hội có bước phát triển toàn diện.
Việc
xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân đã tạo những
điều kiện và cơ hội quan trọng để người dân tham gia vào quá trình chính trị,
các công việc nhà nước, thể hiện cả quyền, năng lực, trách nhiệm của mình trong
xây dựng và thực thi dân chủ. Các cấp ủy đảng, chính quyền lắng nghe, tăng cường
đối thoại với nhân dân, tôn trọng các ý kiến khác nhau. Dân chủ trong Đảng,
trong các tổ chức và xã hội được mở rộng. Tính công khai, minh bạch và trách
nhiệm giải trình trong hoạt động của các cơ quan Đảng, Nhà nước được coi trọng.
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội thực hiện vai trò
giám sát, phản biện xã hội, tham gia góp ý xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước
ngày càng có hiệu quả hơn.
Hệ
thống pháp luật được bổ sung, sửa đổi; đẩy mạnh cải cách hành chính; tăng cường
công tác tiếp dân; giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân; ban hành các quy
định về chế độ công chức nhà nước trong hoạt động công vụ; chú trọng công tác
thanh tra nhà nước và thanh tra nhân dân; ban hành và thực hiện Quy chế dân chủ
ở cơ sở … đã góp phần tích cực vào quá trình phát huy quyền làm chủ của nhân
dân.
II- KINH TẾ
1. Nền
kinh tế thoát khỏi tình trạng trì trệ, khủng hoảng, kém phát triển, trở thành
nước đang phát triển có thu nhập trung bình
Giai
đoạn 1945 - 1954 là giai đoạn đầu tiên xây dựng chế độ kinh tế mới ở Việt Nam
và là giai đoạn khó khăn nhất. Cùng với nhiệm vụ thực hiện cuộc kháng chiến chống
thực dân Pháp, chúng ta đã thực hiện chuyển nền kinh tế tàn tích thực dân,
phong kiến và thấp kém thành nền kinh tế dân chủ, độc lập phục vụ nhu cầu kháng
chiến và kiến quốc.
Giai
đoạn 1955 - 1975 đất nước bị chia cắt, do vậy nền kinh tế của hai miền cũng
khác nhau. Kinh tế miền Bắc giai đoạn 1955 - 1975 thực hiện nhiều nhiệm vụ: thời
kỳ 1955-1957 là thời kỳ khôi phục kinh tế, hàn gắn vết thương chiến tranh, tiếp
tục hoàn thành cải cách ruộng đất, tạo cơ sở kinh tế và chính trị vững chắc đưa
miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội; thời kỳ 1958 - 1960 thực hiện nhiệm vụ cải
tạo xã hội chủ nghĩa nền kinh tế; thời kỳ 1961 - 1975 thực hiện đường lối phát
triển kinh tế trong bối cảnh miền Bắc có chiến tranh. Còn nền kinh tế miền Nam
từ năm 1945 đến năm 1975 phụ thuộc hoàn toàn vào viện trợ Mỹ nhưng hết sức yếu ớt,
trống rỗng.
Giai
đoạn 1976 - 1985, Tổ quốc thống nhất, cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội, công cuộc
cải tạo, xây dựng và phát triển kinh tế trở thành nhiệm vụ hàng đầu của toàn Đảng,
toàn dân ta. Nhân dân sôi nổi thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ hai (1976 -
1980) và kế hoạch 5 năm lần thứ ba (1981 - 1985). Mặc dù đạt được một số thành
tựu nhưng nhìn chung nền kinh tế nước ta thời kỳ trước đổi mới có nhiều hạn chế,
thậm chí có những dấu hiệu khủng hoảng.
Từ
năm 1986, thực hiện đường lối đổi mới đất nước, chúng ta đạt được những thành tựu
bước đầu rất quan trọng. Đến năm 1995, hầu hết các chỉ tiêu chủ yếu của kế hoạch
5 năm (1991 - 1995) hoàn thành vượt mức, sự nghiệp đổi mới đã đưa đất nước ra
khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, tạo được những tiền đề cần thiết để chuyển sang
thời kỳ phát triển mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Tốc độ tăng trưởng
GDP bình quân của 10 năm 1990 - 2000 đạt 7,5%.
Giai
đoạn 2006 - 2010, nền kinh tế nước ta vượt qua nhiều khó khăn, thách thức. Kinh
tế vĩ mô cơ bản ổn định, duy trì được tốc độ tăng trưởng khá, tiềm lực và quy
mô nền kinh tế tăng nhanh, nước ta đã ra khỏi tình trạng kém phát triển. Tốc độ
tăng trưởng kinh tế bình quân 5 năm đạt 7%. Quy mô tổng sản phẩm trong nước
(GDP) năm 2010 đạt 101,6 tỉ USD (gấp 3,26 lần so với năm 2000).
Giai đoạn 2011 - 2020, kinh tế vĩ mô duy trì ổn
định vững chắc, lạm phát được kiểm soát và duy trì ở mức thấp tạo môi trường và
động lực cho phát triển kinh tế - xã hội. Giai đoạn 2011 - 2015, tốc độ tăng
trưởng tổng sản phẩm trong nước (GDP) đạt bình quân 5,9%/năm; giai đoạn 2016 -
2020 ước đạt 6,8%/năm. Dự trữ ngoại hối tăng từ 12,4 tỉ USD năm 2010 lên
trên 80 tỉ USD vào năm 20202.
Kinh
tế 6 tháng đầu năm 2020 diễn ra trong bối cảnh dịch viêm đường hô hấp cấp do chủng
mới của vi rút Corona (Covid-19) bùng phát mạnh trên phạm vi toàn cầu, ảnh hưởng
nghiêm trọng đến mọi mặt của các quốc gia trên thế giới, trong đó có nước ta.
GDP 6 tháng đầu năm 2020 của nước ta vẫn đạt mức tăng trưởng dương, tăng 1,81%.
Trong bối cảnh chung của thế giới và khu vực, kết quả đạt được thể hiện sự nỗ lực
lớn của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta.
Sức
cạnh tranh của nền kinh tế được nâng lên rõ rệt: Năm 2013 - 2014 nền kinh tế Việt
Nam đứng thứ 70/148 quốc gia trong bảng xếp hạng. Năm 2019, năng lực cạnh tranh
toàn cầu (GCI) của Việt Nam tăng 10 bậc so với năm 2018, đứng thứ 67/141 nền
kinh tế. Chỉ số môi trường kinh doanh của Việt Nam năm 2019 tăng 8 bậc so với
năm 2015, xếp thứ 70/190 quốc gia, vùng lãnh thổ.
Năng
suất lao động được nâng lên rõ rệt. Tốc độ tăng năng suất lao động bình quân
giai đoạn 2011 - 2015 là 4,3%/năm, giai đoạn 2016 - 2020 là 5,8%/năm. Xếp hạng
toàn cầu về chỉ số đổi mới sáng tạo của Việt Nam những năm gần đây tăng vượt bậc,
dẫn đầu nhóm quốc gia có thu nhập trung bình thấp.
2. Công
nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế từng bước được đẩy mạnh; phát huy lợi thế
ngành và lãnh thổ
Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng (1960) đã xác định: “Công nghiệp
hóa xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ trung tâm của thời kỳ quá độ ở nước ta”.
Trong 20 năm đầu, công nghiệp hóa diễn ra trong điều kiện có chiến tranh. Những
năm sau, công nghiệp hóa diễn ra trong điều kiện khủng hoảng kinh tế - xã hội,
vừa tìm tòi đổi mới nền kinh tế. Công nghiệp hóa trước đổi mới diễn ra theo mô
hình của Liên Xô, chỉ đến khi khởi đầu là đổi mới tư duy kinh tế và nhất là từ
Đại VIII (1996), công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa của nước ta mới được
xác định một cách đầy đủ. Trong 35 năm đổi mới, đặc biệt sau 10 năm thực hiện
Cương lĩnh 2011, nhận thức của Đảng sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đã
có những bước phát triển mới về cả nội dung và phương thức thực hiện.
Dưới
sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước ta đã tích cực thể chế hóa đường lối, chủ
trương, quan điểm của Đảng về công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, bước đầu
tạo môi trường pháp lý bình đẳng và minh bạch cho các doanh nghiệp thuộc mọi
thành phần kinh tế cạnh tranh, phát triển, khơi thông các nguồn lực trong nước
và thu hút đầu tư nước ngoài. Cơ cấu kinh tế đã bước đầu chuyển dịch theo hướng
hiện đại. Tỷ trọng các ngành công nghiệp và dịch vụ tăng, tỷ trọng ngành nông
nghiệp giảm. Trình độ công nghệ sản xuất công nghiệp đã có bước thay đổi theo
hướng hiện đại. Tỷ trọng công nghiệp chế biến, chế tạo trong giá trị sản xuất
công nghiệp tăng, tỷ trọng công nghiệp khai thác giảm dần. Công nghiệp hóa, hiện
đại hóa nông nghiệp, nông thôn có tiến bộ. Cơ khí hóa, điện khí hóa, thủy lợi
hóa, sinh học hóa được chú trọng gắn với phát triển kết cấu hạ tầng, xây dựng
nông thôn mới. Ngành công nghiệp và xây dựng duy trì tốc độ tăng trưởng khá
liên tục trong nhiều năm; tốc độ triển khai ứng dụng các thành tựu khoa học và
công nghệ được cải thiện, nhiều dây chuyền công nghệ hiện đại, thiết bị tiên tiến,
quy trình quản lý công nghiệp hiện đại được áp dụng. Khu vực dịch vụ có tốc độ
tăng trưởng khá cao, thị trường được mở rộng. Một số ngành dịch vụ mới, chủ lực
có giá trị gia tăng cao như khoa học - công nghệ, thiết kế công nghiệp, nghiên
cứu thị trường, tài chính, ngân hàng, viễn thông. .. đã hình thành và từng bước
phát triển. Việc phát triển và ứng dụng khoa học - công nghệ, đặc biệt là công
nghệ cao có tiến bộ, tạo những tiền đề để bước đầu chuyển sang xây dựng kinh tế
tri thức.
Sản
lượng lương thực quy thóc năm 1954 ở vùng giải phóng đạt trên 2,9 triệu tấn,
tăng 13,7% so với năm 1946. Sản lượng lương thực quy thóc từ 3.759 nghìn tấn
năm 1955 tăng lên 4.738 nghìn tấn năm 1956 và 4.293 nghìn tấn năm 1957; giai đoạn
này chủ yếu tập trung phát triển công nghiệp nhẹ, củng cố phát triển những cơ sở
công nghiệp nặng. Từ năm 1958 đến năm 1960 là thời kỳ cải tạo xã hội chủ nghĩa
nền kinh tế ở miền Bắc. Tổng sản phẩm xã hội bình quân mỗi năm tăng 13,6%, thu
nhập quốc dân tăng 7,7%, giá trị tổng sản lượng công nghiệp tăng 21,5%, tổng mức
bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng xã hội tăng 9,1%, tổng trị giá
xuất, nhập khẩu tăng 13,8%. Năm 1975, ở miền Bắc, tổng sản phẩm xã hội gấp 2,3
lần so với năm 1960, thu nhập quốc dân gấp 1,9 lần. Giá trị tổng sản lượng công
nghiệp gấp 3,4 lần. Kinh tế miền Nam thời kỳ này phụ thuộc hoàn toàn vào viện
trợ Mỹ nhưng hết sức yếu ớt, trống rỗng; tình trạng lạm phát, giá cả hàng hóa
tăng với tốc độ cao.
Giai
đoạn 1986 - 2010, Tỷ trọng công nghiệp và xây dựng trong GDP tăng nhanh và liên
tục (năm 1988 chiếm tỷ lệ 21,6%, năm 1995 chiếm tỷ lệ 41%, năm 2010 chiếm tỷ lệ
41,1%…). Tỷ trọng nông nghiệp trong GDP năm 1988 là 46,3%, năm 2003 giảm xuống
còn 21,8%, năm 2005 là 20,5%. Tỷ trọng ngành nông nghiệp trong GDP giảm dần, từ
38,06% năm 1986 xuống còn 18,9% năm 2010; 18,12% năm 2014 và 13,1% năm 2020. Tỷ
trọng khu vực dịch vụ trong GDP đã tăng
từ 33,1% năm 1988 lên 38% năm 2003 và 38,5% năm 2010.
Từ
năm 2011- 2020, tỷ trọng khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản trong GDP giảm từ
18,9% năm 2010 xuống 13,1% năm 2020; các khu vực công nghiệp, xây dựng và dịch
vụ tăng tương ứng từ 81,1% lên 86,9%, vượt mục tiêu đề ra. Ứng dụng công nghệ
cao, công nghệ thông tin được đẩy mạnh trong nhiều ngành, lĩnh vực. Nông nghiệp
tập trung vào sản xuất hàng hoá theo hướng hiện đại, giá trị gia tăng cao, bền
vững, liên kết sản xuất theo chuỗi giá trị và hình thành nhiều mô hình sản xuất
ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp sạch, hữu cơ. Cơ cấu các ngành công nghiệp
chuyển dịch theo hướng giảm dần tỷ trọng ngành khai khoáng, tăng nhanh tỷ trọng
ngành chế biến, chế tạo và ứng dụng công nghệ cao. Tỷ trọng giá trị xuất khẩu sản
phẩm công nghệ cao trong tổng giá trị sản phẩm công nghệ cao tăng từ 26,9% năm
2010 lên 78,3% năm 2020. Công nghiệp hỗ trợ từng bước được hình thành và
phát triển. Ngành xây dựng tăng trưởng khá, năng lực xây lắp và chất lượng công
trình xây dựng từng bước được nâng lên. Các ngành dịch vụ phát triển đa dạng,
chất lượng ngày càng cao. Ngành du lịch đã có bước phát triển rõ rệt và đạt được
những kết quả quan trọng, cơ bản trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, lượng khách
quốc tế tăng nhanh, đến năm 2020 đạt khoảng 20 triệu lượt.
Cơ
cấu lao động đã có sự chuyển đổi tích cực, gắn liền với quá trình chuyển dịch
cơ cấu kinh tế, phục vụ tốt hơn các mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Tỷ
trọng lao động ngành nông nghiệp đã giảm mạnh, từ 73% năm 1990 xuống khoảng 47%
năm 2014 và 33,5% năm 2020. Tỷ trọng lao động ngành công nghiệp - xây dựng và dịch
vụ tăng liên tục, trong đó ngành công nghiệp, xây dựng tăng từ 11,2% năm 1990
lên 18,2% năm 2005 và đến năm 2014 là 20,8%; ngành dịch vụ tăng từ 15,8% năm
1990 lên 24,7% năm 2005 và đến năm 2014 là 32,2%. Tỷ lệ lao động qua đào tạo
tăng từ dưới 10% năm 1990 lên 40% năm 2010 và 65% năm 2020.
3. Chuyển nền kinh tế từ thế bị bao vây, cấm
vận, khép kín sang nền kinh tế mở và hội nhập quốc tế
Giai
đoạn 1945 - 1954, nhân dân Việt Nam bước vào cuộc kháng chiến chống thực dân
Pháp trong thế bị bao vây, cô lập, phải đối phó với nhiều loại kẻ thù. Đảng,
Chính phủ Việt Nam đã nêu cao thiện chí và chính nghĩa, tranh thủ sự đồng tình,
ủng hộ của nhân dân thế giới, nỗ lực tìm kiếm sự đồng tình, ủng hộ của các nước
trong khu vực, các lực lượng hòa bình, dân chủ trên thế giới đối với cách mạng
Việt Nam; tranh thủ sự ủng hộ, giúp đỡ của Đảng Cộng sản và nhân dân Pháp; hình
thành liên minh phối hợp chiến đấu với Lào và Campuchia cùng chống kẻ thù
chung; giúp đỡ, đặt nền tảng cho sự tương trợ giữa cách mạng Trung Quốc và cách
mạng Việt Nam; tranh thủ sự ủng hộ, giúp đỡ của Liên Xô. Từ năm 1950 đến năm
1954, cách mạng Việt Nam bước sang một giai đoạn mới với sự hậu thuẫn to lớn của
Liên Xô, Trung Quốc, các nước dân chủ nhân dân, những người anh em láng giềng
và nhân loại tiến bộ trên toàn thế giới.
Giai
đoạn 1955 - 1975, quan hệ thương mại giữa miền Bắc nước ta với các nước trên thế
giới cũng được mở rộng, từ 10 nước (trong đó có 7 nước xã hội chủ nghĩa) trong
năm 1955, đến năm 1965, đã tăng lên 35 nước (trong đó có 12 nước xã hội chủ
nghĩa). Tính đến tháng 7/2000, Việt Nam ký Hiệp định thương mại với 61 nước,
trong đó có Mỹ, đưa tổng số nước có quan hệ ngoại thương với nước ta từ 50 nước
năm 1990 lên 170 nước năm 2000. Đến đầu năm 2020, Việt Nam đã tham gia 16 hiệp
định thương mại tự do (FTA), có quan hệ thương mại với 224 đối tác, trong đó có
hơn 70 nước là thị trường xuất khẩu của ta; có quan hệ với hơn 500 tổ chức quốc
tế; 71 nước công nhận quy chế kinh tế thị trường cho Việt Nam; các địa phương
đã ký kết 420 thỏa thuận quốc tế với các địa phương, đối tác, doanh nghiệp nước
ngoài, tăng 20,3% so với giai đoạn 2014 - 2016.
4. Chính sách xã hội được quan tâm, đời sống
nhân dân được cải thiện, không ngừng nâng cao
Giai
đoạn 1946 - 1954, các chính sách về ruộng đất, giảm tô, giảm tức, cải cách ruộng
đất, thực hiện người cày có ruộng từng bước được cải thiện. Lương thực bình
quân đầu người năm 1957 đã đạt 303 kg. Thu nhập bình quân đầu người của gia
đình xã viên hợp tác xã nông nghiệp năm 1970 tăng 20% so với năm 1965. Tỷ lệ hộ
nghèo giảm rõ rệt qua các năm, kể cả khu vực nông thôn và thành thị, từ 14,2%
năm 2010 xuống còn 7% năm 2015 (theo chuẩn nghèo giai đoạn 2011 - 2015), từ
9,2% năm 2016 xuống dưới 3% năm 2020 (theo chuẩn nghèo đa chiều). GDP bình quân
đầu người tăng từ 1.332 USD/người năm 2010 lên khoảng 3.000 USD/người năm 2020.
Chương trình xây dựng nông thôn mới đạt nhiều kết quả quan trọng, diện mạo nông
thôn có nhiều khởi sắc. Tỷ lệ dân cư thành thị được sử dụng nước sạch dự kiến đến
năm 2020 đạt khoảng 90%, dân số nông thôn được sử dụng nước sạch và hợp vệ sinh
ước đạt 96%; tỷ lệ khu công nghiệp, khu chế xuất đang hoạt động có hệ thống xử
lý nước thải tập trung đạt tiêu chuẩn môi trường ước năm 2020 là 90%. Tỷ lệ đô
thị hóa tăng từ 30,5% năm 2010 lên khoảng 40% năm 2020.
III- VĂN HÓA
1. Văn hóa
phát triển đa dạng, phong phú, dân tộc, khoa học, đại chúng trong mọi lĩnh vực
của đời sống xã hội, trở thành nguồn lực phát triển đất nước
Nhận
thức của Đảng và Nhà nước, của nhân dân về vai trò của văn hóa trong xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc ngày càng đầy đủ và nâng cao. Nhân tố văn hóa trong phát triển
kinh tế - xã hội đã được coi trọng với một số chính sách liên quan đến công
nghiệp văn hóa, gắn văn hóa với phát triển. Đã bước đầu khai thác văn hóa như
nguồn lực nội sinh để phát triển kinh tế - xã hội, phát huy, hình thành các
nhân tố mới, giá trị mới của con người Việt Nam.
Sản
phẩm văn hóa tăng đáng kể về số lượng, chất lượng. Văn học, nghệ thuật đã tạo
ra nhiều tác phẩm phản ánh mọi lĩnh vực đời sống, nỗ lực đổi mới tư duy sáng tạo,
tìm tòi phương thức thể hiện mới để nâng cao năng lực khám phá cuộc sống. Ngành
nghệ thuật biểu diễn có sự phát triển phong phú và đa dạng, mỗi năm đã dàn dựng
được hàng trăm chương trình, vở diễn, tiết mục mới. Nhiều loại hình văn hóa,
nghệ thuật đã có bước phát triển năng động, thích nghi với nền kinh tế thị trường
và hội nhập quốc tế. Sức sáng tạo của nhân dân được phát huy trong các hoạt động
sáng tác, biểu diễn, truyền bá văn hóa, văn học, nghệ thuật. Giá trị văn hóa
phong phú đặc sắc của các dân tộc được kế thừa và phát triển, làm nền văn hóa
dân tộc. Nhiều giá trị văn hóa Việt Nam, được thế giới công nhận và trở thành một
phần trong kho tàng văn hóa nhân loại. Đời sống văn hóa của nhân dân ngày càng
phong phú.
Hội
nhập quốc tế về văn hóa bước đầu có những thành tựu. Nhiều giá trị văn hóa,
sáng tạo văn hóa mới của nhân loại được tiếp nhận góp phần làm phong phú và nâng
cao đời sống văn hóa tinh thần của người dân. Cùng với giao lưu văn hóa quốc tế
được mở rộng thì di sản văn hóa được coi trọng, truyền thống văn hóa tốt đẹp của
dân tộc được đề cao, bản sắc dân tộc được giữ gìn và phát huy. Các sự kiện văn
hóa được tổ chức nhằm tôn vinh và khẳng định bản sắc văn hóa của dân tộc.
2. Nhiều phong trào, cuộc vận động về văn
hóa đạt kết quả tích cực, góp phần tạo môi trường văn hóa, bảo vệ và phát huy
những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc
Phong
trào "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa" đã có những chuyển
biến tích cực góp phần hoàn thành chung các mục tiêu phát triển kinh tế, văn
hóa, xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, xóa đói, giảm
nghèo, xây dựng nông thôn mới, thực hiện tốt Quy chế dân chủ ở cơ sở. Phong
trào “Xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh” được triển khai rộng rãi và đi vào
chiều sâu, thu được kết quả tích cực; xây dựng văn hóa lành mạnh trong hệ thống
chính trị, trong mỗi địa phương, trong từng cộng đồng làng, bản, khu phố, cơ
quan, đơn vị, doanh nghiệp, khu công nghiệp và mỗi gia đình, góp phần giáo dục,
rèn luyện con người về nhân cách, đạo đức, lối sống. Các phong trào “Đền ơn đáp
nghĩa”, “Uống nước nhớ nguồn”, từ thiện, nhân đạo rộng khắp, thể hiện đạo lý của
dân tộc và những giá trị nhân văn của con người Việt Nam. Văn hóa đã góp phần
quan trọng nâng cao dân trí, dân chủ hóa đời sống xã hội, nâng cao tính năng động
sáng tạo, tự chủ và tính tích cực xã hội của con người. Hoạt động thể dục, thể
thao ngày càng được mở rộng, đạt nhiều thành tích cao của khu vực và thế giới.
3. Hệ thống thông tin đại chúng phát triển
nhanh chóng, mạnh mẽ, đáp ứng ngày càng tốt đời sống tinh thần nhân dân
Giai
đoạn 1945 - 1954, thực hiện chỉ thị của Đảng, nhiều tủ sách, thư viện trong các
cơ quan dân chính đảng, trong đơn vị quân đội được thành lập, cùng với việc
thành lập Đài Phát thanh Tiếng nói Việt Nam, ở miền Nam đã xây dựng Đài Phát
thanh Tiếng nói Nam Bộ và Đài Tiếng nói Sài Gòn - Chợ Lớn. Từ năm 1954, hệ thống
truyền thanh được phát triển mạnh mẽ khắp cả nước, sau ngày miền Nam giải
phóng, mạng lưới đài phát thanh và truyền hình ở các tỉnh, huyện được xây dựng,
trở thành kênh thông tin quan trọng tuyên truyền chủ trương, đường lối, chính
sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước.
Từ
năm 1986 đến nay, lĩnh vực báo chí liên tục phát triển phong phú và đa dạng,
tính chuyên nghiệp ngày càng nâng cao, thông tin kịp thời các hoạt động chính
trị - xã hội, phản ánh tình hình kinh tế - xã hội của đất nước, đáp ứng nhu cầu
thông tin đa dạng của nhân dân. Năm 2019 có 850 cơ quan báo in, báo điện tử. Hiện
nay, hệ thống báo chí đang được đẩy mạnh quy hoạch theo Đề án sắp xếp của Chính
phủ. Lĩnh vực phát thanh - truyền hình có bước phát triển nhanh về kỹ thuật và
công nghệ thông tin, năm 2019 có 72 đài phát thanh, đài truyền hình (cả địa
phương và trung ương). Năm 2019, các nhà xuất bản đã thực hiện xuất bản và nộp
lưu chiểu 37.100 xuất bản phẩm với 441 triệu bản, tổng doanh thu toàn ngành đạt
hơn 2,7 tỷ đồng. Chất lượng nội dung xuất bản phẩm có nhiều chuyển biến tích cực.
Các loại sách về các lĩnh vực pháp luật, văn hóa, văn học, thiếu niên, nhi đồng,
khoa học, công nghệ, kinh tế, giáo dục, tôn giáo, môi trường... ngày càng phong
phú và có chất lượng tốt. Đến tháng 01/2020, có khoảng 68,17 triệu người Việt
Nam sử dụng dịch vụ internet.
4. Công
tác bảo tồn, phát huy di sản văn hóa các dân tộc đạt nhiều kết quả; di sản văn
hóa đang trở thành tài nguyên độc đáo của du lịch Việt Nam
Công
tác sưu tầm, bảo quản, tôn tạo, tu bổ và phát huy giá trị di sản văn hóa của
dân tộc đã đạt nhiều thành tựu, đáp ứng nhu cầu hưởng thụ và sáng tạo văn hóa
đa dạng của nhân dân. Nhờ có đường lối và chính sách đúng mà hàng ngàn di tích
văn hóa được trùng tu, tôn tạo; hàng trăm lễ hội truyền thống được phục hồi;
nhiều làn điệu dân ca, các huyền thoại, truyền thuyết, các bộ sử thi... di sản
văn hóa vật thể, phi vật thể được công nhận ở cấp quốc gia, quốc tế và thực tế
đã trở thành những di sản chung của văn hóa nhân loại. Văn hóa truyền thống,
văn hóa các dân tộc thiểu số được chú trọng, đầu tư phát triển, góp phần xứng
đáng vào sự nghiệp bảo tồn, khẳng định giá trị, bản sắc của văn hóa Việt Nam. Đời
sống văn hóa tinh thần, quyền tự do tôn giáo, tín ngưỡng của nhân dân cũng được
khôi phục, tôn trọng. Hoạt động giao lưu và hợp tác quốc tế về văn hóa với khu
vực và quốc tế được mở rộng, từng bước phát triển theo chiều sâu, mang tính ổn
định, bền vững, góp phần giới thiệu, quảng bá, tôn vinh văn hóa Việt Nam, tiếp
thu tinh hoa văn hóa nhân loại.
Năm
2013, cả nước có trên 40.000 di tích được kiểm kê, trong đó có trên 36.000 di
tích được xếp hạng di tích cấp tỉnh và trên 3.000 di tích được xếp hạng di tích
cấp quốc gia, có trên 20 di tích được xếp hạng là di tích quốc gia đặc biệt. Cuối
năm 2014, Việt Nam có 8 di sản văn hóa vật thể, 9 di sản văn hóa phi vật thể, 4
di sản tư liệu được vinh danh di sản thế giới. Đến năm 2020, cả nước có 28 di sản
văn hóa vật thể và phi vật thể được UNESCO ghi danh; 301 di sản văn hóa phi vật
thể quốc gia; 191 hiện vật và nhóm hiện vật được công nhận là bảo vật quốc gia;
3.498 di tích quốc gia; 122 di tích quốc gia đặc biệt; 168 bảo tàng, thường
xuyên lưu giữ và trưng bày khoảng 3 triệu tài liệu, hiện vật.
5. Công
tác quản lý văn hoá có nhiều đổi mới
Công
tác lãnh đạo và quản lý văn hóa đã có những đổi mới theo hướng tích cực. Đảng
và Nhà nước đã kịp thời đề ra những chủ trương, giải pháp đúng đắn để giải
phóng sức sáng tạo của nhân dân, tạo điều kiện và cơ hội thuận lợi cho nhân dân
tham gia vào quá trình xây dựng và phát triển văn hóa dân tộc. Những quan điểm
mới, nhận thức mới của Đảng đã được Nhà nước thể chế hóa kịp thời, trở thành động
lực thúc đẩy văn hóa phát triển. Phương thức lãnh đạo của Đảng và quản lý của
Nhà nước về văn hóa cũng từng bước đổi mới để thích nghi với kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế, thực hành dân chủ rộng rãi và
bảo đảm quyền văn hóa của người dân. Các hội văn học nghệ thuật phát triển cả về
số lượng và chất lượng. Công tác nghiên cứu lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật
từng bước được củng cố. Đội ngũ làm công tác văn hóa, văn nghệ có bước trưởng
thành; quyền tự do sáng tạo của văn nghệ sĩ được tôn trọng.
IV- XÃ HỘI
1. Hệ thống
chính sách xã hội được xây dựng và ngày càng hoàn thiện
Giai
đoạn 1945 - 1954, những chính sách đầu tiên về lao động, việc làm, về khuyến
khích tăng gia sản xuất, bảo vệ quyền của người lao động, về chăm sóc thương
binh, bệnh binh, gia đình liệt sĩ đã được ban hành và đi vào cuộc sống. Giai đoạn
1955 - 1975, ở miền Bắc, Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều chính sách liên
quan đến điều chỉnh quan hệ lao động làm công ăn lương trong các xí nghiệp thời
gian đầu mới tiếp quản; bảo đảm đời sống và điều kiện lao động cho công nhân
viên chức nhà nước; huy động và phân bổ, sử dụng lao động; tiến hành ba lần cải
cách tiền lương, áp dụng chế độ trả lương bằng tiền thay thế chế độ trả bằng hiện
vật. Đặc biệt, năm 1961, Đảng đã chủ trương vận đồng đồng bào miền xuôi đi xây
dựng và phát triển kinh tế, văn hóa miền núi. Đây là một chủ trương rất lớn, được
thực hiện hiệu quả cho đến tận ngày nay. Những năm 1965 - 1975, cuộc kháng chiến
chống Mỹ, cứu nước bước vào giai đoạn cam go, ác liệt, nhiều chính sách lao động
được hoàn thiện phù hợp với thời chiến nhằm huy động tối đa sức người, sức của
thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược. Công tác kế hoạch hóa lao động được
chú ý, nhiều chỉ tiêu về phân bố, điều phối lao động, năng suất lao động, tiền
lương đã được đưa vào kế hoạch hàng năm, trở thành chỉ tiêu pháp lệnh. Hàng loạt
chính sách về thương binh, liệt sĩ được sửa đổi, bổ sung.
Từ
năm 1986 đến nay, thực hiện công cuộc đổi mới, lĩnh vực xã hội có những thành tựu
quan trọng. Nhà nước đã ban hành Bộ luật lao động và hàng loạt các chính sách về
giải quyết việc làm, dạy nghề, xuất khẩu lao động, phát triển nguồn nhân lực,
phát huy nội lực sức lao động, phát triển thị trường lao động theo định hướng
xã hội chủ nghĩa, cải cách tiền lương, đổi mới chế độ bảo hiểm xã hội, bảo hộ
lao động, v.v., góp phần thúc đẩy công cuộc đổi mới. Đặc biệt những năm gần đây
(2016 - 2020), việc thể chế hóa các quan điểm, chủ trương của Đảng, hệ thống
chính sách xã hội đã nhanh chóng được bổ sung, sửa đổi theo hướng bảo đảm các
quyền cơ bản của con người phù hợp với điều kiện cụ thể của đất nước và với các
tiêu chuẩn tiến bộ về quyền con người được cộng đồng quốc tế thừa nhận; ban
hành và triển khai một số chính sách trong lĩnh vực lao động, ưu đãi người có
công, an sinh xã hội, chính sách đặc thù cho vùng dân tộc thiểu số; hệ thống
văn bản pháp luật, chính sách đảm bảo nguyên tắc bình đẳng giới; các chính sách
về tiền lương,...
2. Giải quyết lao động, việc làm và thu nhập
cho người lao động, xóa đói giảm nghèo, bảo đảm an sinh xã hội
Sau
ngày đất nước thống nhất, công tác lao động, xã hội được mở rộng, trong đó tập
trung giải quyết các vấn đề lao động ở miền Nam, động viên lực lượng cả nước
tham gia hàn gắn vết thương chiến tranh, từng bước cải thiện đời sống người lao
động. Ở miền Nam, hậu quả chiến tranh để lại rất nặng nề. Đảng, Nhà nước đã ban
hành nhiều chính sách để giải quyết, sắp xếp việc làm cho người lao động thất
nghiệp; ổn định đời sống cho cán bộ tập kết từ miền Bắc trở về; sắp xếp việc
làm cho bộ đội, thanh niên xung phong xuất ngũ. Thực hiện chủ trương phân bổ lại
lực lượng lao động và dân cư, hàng triệu đồng bào đồng bằng sông Hồng đã hăng
hái đi khai hoang, xây dựng các vùng kinh tế mới ở Tây Nguyên, Đông Nam Bộ, đồng
bằng sông Cửu Long. Những năm 80 thế kỷ XX, chủ trương đưa người Việt Nam đi
làm việc có thời hạn ở nước ngoài được triển khai mạnh mẽ; đã giải quyết được
việc làm cho một bộ phận thanh niên (khoảng 20 vạn người), đồng thời đào tạo một
đội ngũ lao động có tay nghề, đáp ứng nhu cầu phát triển đất nước sau này. Công
tác xác nhận thương binh, liệt sĩ, thống nhất chính sách, chế độ giữa hai miền,
công tác quy tập, xây dựng nghĩa trang liệt sĩ được đẩy mạnh.
Từ
năm 1986 đến nay, các chính sách người có công, bảo đảm an sinh xã hội, bảo hiểm
xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, bảo đảm an toàn vệ sinh lao động được thực hiện tốt.
Diện bao phủ bảo hiểm xã hội ngày càng được mở rộng. Đẩy mạnh hỗ trợ nhà ở cho
người có công, người nghèo ở nông thôn và các vùng thường xuyên bị thiên tai,
bão lũ; phát triển nhà ở xã hội. Bình đẳng giới được thực hiện có hiệu quả;
công tác bảo vệ trẻ em được quan tâm.
Cùng
với tăng trưởng kinh tế, nhiều giải pháp tạo việc làm, nâng cao thu nhập cho
người lao động được thực hiện. Tỷ lệ thất nghiệp của lực lượng lao động trong độ
tuổi ở thành thị có xu hướng giảm dần từ mức 4,5% năm 2010 xuống còn 3% năm
2020. Từ 2006 - 2011, đã giải quyết được việc làm cho trên 8 triệu lao động,
tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị giảm còn dưới 4,5%. Lao động qua đào tạo đã có những
chuyển dịch tích cực. Công tác dạy nghề cũng đạt được những kết quả quan trọng,
số người được đào tạo nghề liên tục tăng. Năm 2002, số người được dạy nghề là 1
triệu người, đến năm 2004 là gần 1,2 triệu người. Tỷ lệ lao động qua đào tạo được
cải thiện đáng kể từ 40% năm 2010 lên 65% năm 2020.
Năm
1999, số người Việt Nam đi lao động ở nước ngoài là 19.780 người, đến 2003 là
72.000 người, tăng gấp 3,6 lần. Năm 2004, thị trường lao động ngoài nước có nhiều
biến động, ta đưa được 67.447 người đi lao động. Giai đoạn 2011- 2020, công tác
lao động xuất khẩu có bước tiến đáng kể.
Thực
hiện tốt các chính sách người có công, bảo đảm an sinh xã hội. Phát huy truyền
thống “Uống nước nhớ nguồn”, huy động toàn xã hội tham gia chăm sóc gia đình
chính sách, người có công. Đến nay, cả nước đã xác nhận được trên 9,2 triệu người
có công, trong đó, số người đang hướng chế độ ưu đãi hằng tháng gần 1,4 triệu
người; trên 500 nghìn thân nhân người có công đang hướng trợ cấp hằng tháng.
Thành
tựu xóa đói, giảm nghèo được thế giới đánh giá cao. Tỷ lệ hộ đói, nghèo đã giảm
liên tục từ 30% năm 1992 xuống còn 8,3% năm 2004. Đến năm 2000, cơ bản xóa xong
tình trạng đói kinh niên. Giai đoạn 2010 - 2020, tỉ lệ hộ nghèo giảm nhanh, từ
14,2% năm 2010 xuống còn 7% năm 2015 (theo chuẩn nghèo giai đoạn 2011 - 2015)
và giảm từ 9,2% năm 2016 xuống dưới 3% năm 2020 (theo chuẩn nghèo đa chiều).
3.
Chỉ số phát triển con người không ngừng tăng lên
Chỉ
số phát triển con người (HDI) của Việt Nam liên tục được cải thiện, thuộc nhóm
các nước có mức phát triển con người trung bình cao của thế giới; từ mức 0,654
năm 2010 (thứ hạng 114/189 quốc gia và vùng lãnh thổ) lên mức 0,694 năm 2017
(thứ hạng 116/189 quốc gia và vùng lãnh thổ)”.
V- Y TẾ
1. Công
tác y tế, chăm sóc sức khoẻ nhân dân được tăng cường
Trong
9 năm kháng chiến chống thực dân Pháp (1945-1954), ngành Y tế đã bảo đảm phục vụ
tốt chăm sóc thương, bệnh binh và phòng, chống dịch bệnh như dịch tả, thương
hàn, bại liệt; đẩy lùi được một số bệnh xã hội đe dọa sức khỏe nhân dân như sốt
rét, mắt hột, lao, bệnh đậu mùa. Từ năm 1954, ở miền Bắc, ngành Y tế đã tập
trung xây dựng và phát triển y tế ở khu vực nông thôn, làm cho bộ mặt nông thôn
miền Bắc thay đổi rõ rệt: các công trình vệ sinh được xây dựng, sức khoẻ của
nhân dân không ngừng được nâng lên.
Giai
đoạn 1956 - 1975, lĩnh vực chăm sóc và bảo
vệ sức khỏe cho nhân dân có sự phát triển nhanh chóng. Các phong trào quần
chúng rèn luyện thân thể, giữ gìn vệ sinh, làm sạch môi trường, chăm sóc bản
thân rất sôi nổi. Hệ thống y tế có nhiều thành tựu trong việc chăm lo, bảo vệ sức
khỏe, nâng cao thể lực của nhân dân, chăm sóc người già, phụ nữ, trẻ em trong
thời kỳ chiến tranh gian khổ và ác liệt. Sau ngày đất nước thống nhất, ở miền
Nam nhiều bệnh xã hội, bệnh truyền nhiễm có nguy cơ gây thành dịch đã được xử
lý.
Từ
năm 1986 đến nay, công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân đạt nhiều thành tựu quan
trọng. Công tác y tế có sự đổi mới theo hướng đa dạng hóa các hình thức tổ chức
khám, chữa bệnh cho người dân; từng bước thực hiện công bằng trong khám, chữa bệnh
cho người dân. Các chương trình dân số, kế hoạch hóa gia đình, giáo dục, bảo vệ
và chăm sóc trẻ em được triển khai tích cực. Mức hưởng thụ dịch vụ y tế của
nhân dân tăng lên, đặc biệt với trẻ em, người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số.
Chất lượng dân số từng bước được cải thiện, tuổi thọ trung bình tăng, đến năm
2020 ước đạt 73,7 tuổi. Công tác y tế, chăm sóc sức khoẻ nhân dân được tăng cường,
chất lượng dịch vụ khám, chữa bệnh được nâng cao; từng bước giải quyết tình trạng
quá tải bệnh viện tuyến trên. Công tác dự phòng, phát hiện sớm, quản lý các bệnh
không lây nhiễm được chú trọng; năng lực giám sát, dự báo, phát hiện và khống
chế dịch bệnh được nâng lên. Tỷ lệ người dân tham gia bảo hiểm y tế tăng nhanh,
từ 60,9% dân số năm 2010 lên 90,7% vào năm 2020.
2. Mạng lưới y tế được mở rộng, nhất là y tế
cơ sở
Ách
đô hộ của thực dân Pháp đã để lại những hậu quả nặng nề về sức khỏe cho người
dân Việt Nam. Cơ sở khám chữa bệnh cho nhân dân hầu như không có. Sau khi giành
được chính quyền, Nhà nước ta đã xây dựng thêm nhiều cơ sở y tế. Đến năm 1954,
tại vùng giải phóng có 135 bệnh viện, bệnh xá, 790 phòng khám bệnh, 740 trạm cứu
thương và 300 nhà hộ sinh.
Đến
năm 1975, ở miền Bắc đã có 1.180 cơ sở khám, chữa bệnh, với 56,6 nghìn giường bệnh.
Số cán bộ y tế là 93 nghìn người, trong đó có 29.600 y, bác sĩ. Bình quân một vạn
dân có 12,1 bác sĩ. Sau ngày đất nước thống nhất, hệ thống y tế xã, phường hầu
như không có. Do đó, việc xây dựng hệ thống y tế từ tỉnh đến cơ sở đủ sức chăm
sóc sức khỏe ban đầu cho nhân dân đặt ra rất cấp thiết. Năm 1985, cả nước có
11.059 cơ sở khám chữa bệnh với 202,2 nghìn giường bệnh. Số cán bộ y tế là
187,4 nghìn người, trong đó có 62,3 nghìn y, bác sĩ. Bình quân 1 vạn dân có
13,6 y, bác sĩ.
Thực
hiện phương châm “Nhà nước và nhân dân cùng làm”, công tác y tế có sự đổi mới
theo hướng đa dạng hóa các hình thức tổ chức khám, chữa bệnh cho người dân. Các
dịch vụ khám, chữa bệnh ngoài giờ tại nhà, tại các cơ sở chữa bệnh được mở rộng.
Mạng lưới khám, chữa bệnh trên toàn quốc được sắp xếp lại, hệ thống tổ chức y tế
cơ sở (xã, phường, thị trấn) được củng cố, đủ sức thực hiện chăm sóc sức khỏe
ban đầu cho nhân dân ngày một tốt hơn. Năm 2003, cả nước có 13.162 cơ sở khám với
192,9 nghìn giường bệnh. Số cán bộ y tế là 184,6 nghìn người. Năm 2005, gần
100% các trạm y tế xã, phường có y, bác sĩ.
Đến
nay, mạng lưới y tế cơ sở được phát triển rộng khắp toàn quốc. Việt Nam được quốc
tế đánh giá là một trong số ít quốc gia có mạng lưới y tế hoàn chỉnh, tổ chức rộng
khắp tới tận thôn, bản và đang là mô hình mà nhiều nước trên thế giới quan tâm,
học hỏi kinh nghiệm. Cả nước có 1.400 bệnh viện với 180.000 giường bệnh, 700
trung tâm y tế huyện, quận, thị xã; hơn 11.100 trạm y tế xã, phường, thị trấn,
trong đó có hơn 60% số trạm y tế đã đạt tiêu chí quốc gia về y tế xã giai đoạn
2010- 2020; 100% số xã có trạm y tế hoặc có phòng khám đa khoa khu vực liên xã;
87,5% số trạm y tế xã có bác sĩ làm việc (bao gồm cả bác sĩ làm việc lâu dài và
bác sĩ tuyến trên luân phiên về làm việc hai, ba ngày trong tuần); 96% số trạm
y tế xã có nữ hộ sinh/y sĩ sản nhi và hơn 95% số thôn bản có nhân viên y tế
thôn, bản hoặc cô đỡ thôn, bản…
3. Những
thành tựu y học nổi bật
Chủ
động sản xuất được nhiều vắcxin phòng bệnh: Thành tựu y tế quan trọng thời kỳ
sau năm 1945 là sản xuất được các loại vắcxin phòng bệnh tả, bệnh đậu mùa,
thương hàn để tiêm chủng cho nhân dân; bào chế và sản xuất được các thuốc thông
thường bằng nguyên liệu tại chỗ. Năm 1950, lần đầu tiên Việt Nam sản xuất được
kháng sinh peniciline. Năm 1961, lần đầu tiên Việt Nam sản xuất được vắcxin
sabin phòng bệnh bại liệt và vắcxin phòng bệnh đậu mùa. Hiện nay, Việt Nam được
công nhận là một trong số ít quốc gia làm chủ được công nghệ sản xuất vắcxin, tự
nghiên cứu sản xuất vắcxin, như vắcxin cúm mùa 3 type được sản xuất và đủ điều
kiện thương mại hóa; ứng dụng công nghệ sinh học vào sàng lọc và chẩn đoán phát
hiện nhanh, chính xác các tác nhân gây dịch, như: sởi, sốt xuất huyết, tay chân
miệng, là cơ sở để không xảy ra dịch trên quy mô lớn như các năm trước đây.
Điểm
sáng trong thực hiện Mục tiêu Thiên niên kỷ: Đến nay, Việt Nam đã thanh toán được
bệnh bại liệt, khống chế được bệnh uốn ván sơ sinh, ho gà, bạch hầu… Tỷ lệ suy
dinh dưỡng thể nhẹ cân đã giảm từ 30,1% năm 2000 xuống còn 14,1% năm 2015 và
năm 2016, tỷ lệ suy dinh dưỡng nhẹ cân ở trẻ dưới 5 tuổi là 13,8%. Tỷ suất chết
mẹ giảm xuống còn 58,3 trên 100.000 trẻ đẻ sống năm 2015; tỷ suất chết trẻ em
dưới một tuổi giảm khá nhanh, xuống còn 14,73 phần nghìn; tỷ suất chết trẻ em
dưới năm tuổi giảm xuống 22,12 phần nghìn, đưa Việt Nam thành một trong năm nước
đang phát triển có mức tử vong bà mẹ, trẻ em giảm nhanh nhất trên thế giới. Tuổi
thọ trung bình tăng từ 72,9 tuổi năm 2010 lên 73,7 tuổi vào năm 2020, trong đó
nam giới 71,2 tuổi, nữ giới 76,5 tuổi.
Kiểm
soát và ngăn ngừa nhiều dịch bệnh nguy hiểm: Việt Nam hiện đã xây dựng được
năng lực giám sát, phát hiện, chẩn đoán xác định dịch bệnh và ứng phó giải quyết
dịch bệnh một cách nhanh chóng, hiệu quả. Năng lực phòng, chống dịch bệnh nguy
hiểm và mới nổi được nâng cao. Công tác chuẩn bị, sẵn sàng ứng phó với các dịch
bệnh nguy hiểm cũng được tích cực chủ động. Kết quả là nhiều dịch bệnh nguy hiểm
đã được khống chế, đẩy lùi và thanh toán, cụ thể như thanh toán bệnh đậu mùa
vào năm 1978, thanh toán bệnh bại liệt vào năm 2000, loại trừ uốn ván sơ sinh
vào năm 2005, từ năm 2002 không có bệnh dịch hạch; một số bệnh dịch đã giúp giảm
số người nhiễm hàng trăm đến hàng nghìn lần so với những năm trước khi có
Chương trình tiêm chủng mở rộng như bạch hầu, ho gà, sởi... Nhiều bệnh dịch lưu
hành khác có nguy cơ bùng phát thành dịch lớn, như: sốt xuất huyết, viêm não
virus, lao, thương hàn, tả đã được khống chế; không gây thành các dịch lớn, hạn
chế tỷ lệ mắc và tử vong. Việt Nam là một trong những quốc gia đầu tiên khống
chế thành công dịch SARS, cúm A/H5N1, cúm A/H1N1; ngăn chặn thành công không để
một số dịch bệnh nguy hiểm mới nổi xâm nhập như cúm A/H7N9, Ebola, MERS-CoV...Việt
Nam cũng triển khai được năng lực giám sát xét nghiệm rất tốt. Tất cả bệnh truyền
nhiễm mới nổi đến nay, Việt Nam đều có khả năng xét nghiệm và phát hiện bệnh
như MERS-CoV, Ebola, cúm A/H7N9 hay COVID-19, v.v... Hệ thống giám sát bệnh
truyền nhiễm hoạt động hiệu quả từ giám sát cộng đồng, giám sát tại cửa khẩu, tại
phòng xét nghiệm; giám sát tại vùng bất thường liên quan đến yếu tố dịch tễ đều
được báo cáo, sàng lọc.
Làm
chủ nhiều công nghệ cao: Việt Nam cũng tiếp tục làm chủ, hoàn thiện đưa nhiều kỹ
thuật y học đạt tầm thế giới, thực hiện chuyển giao nhiều kỹ thuật tiên tiến
trong chẩn đoán và điều trị như phẫu thuật nội soi, can thiệp tim mạch, chẩn
đoán hình ảnh, hỗ trợ sinh sản, điều trị ung thư máu, nhồi máu cơ tim, bệnh lý
xương - khớp, bỏng, phẫu thuật tạo hình; ứng dụng tế bào gốc trong điều trị bệnh
về máu. Cho đến nay, hệ thống y tế nước ta đã có 15 cơ sở ghép được tim, thận,
gan, ghép giác mạc, ghép tế bào gốc tạo máu. Tháng 10/2019, hai ca ghép phổi
thành công đã đánh dấu kỳ tích mới trong ngành ghép tạng Việt Nam. Việt Nam
cũng tiếp tục khẳng định làm chủ công nghệ ghép đa tạng - một kỹ thuật khó của
y học thế giới. Trong lĩnh vực sản khoa, năm 2019, Bệnh viện Phụ sản Hà Nội là
bệnh viện công lập đầu tiên đã triển khai thành công kỹ thuật can thiệp bào
thai - là kỹ thuật cao nhất, hiện đại nhất trong y học bào thai hiện nay.
VI- GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
1. Quy mô
giáo dục phát triển nhanh, thực hiện nền giáo dục toàn dân, đáp ứng nhu cầu học
tập ngày càng tăng của nhân dân
Ngay
sau Cách mạng Tháng Tám 1945 thành công, Đảng và Nhà nước ta đã đề ra nhiều chủ
trương, chính sách lớn về phát triển giáo dục. Cả nước sôi nổi thực hiện phong
trào bình dân học vụ, từ năm 1945 đến năm 1964, số thoát nạn mù chữ lên đến
10,5 triệu người. Sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, việc
xóa nạn mù chữ đã căn bản hoàn thành ở miền xuôi, phong trào bổ túc văn hóa
phát triển mạnh mẽ. So với năm học 1955 -1956, năm học 1975 - 1976 số trường phổ
thông tăng 2,6 lần, số học sinh tăng 7,4 lần, số trường trung cấp chuyên nghiệp
tăng 29,1 lần, số trường đại học tăng 19,5 lần, số sinh viên tăng 50,9 lần. Ở
miền Nam, sau giải phóng, chúng ta đã tổ chức cho hàng chục vạn người theo học
các lớp bổ túc văn hóa. Nhà trẻ và các lớp mẫu giáo phát triển khá nhanh. Các
trường phổ thông phát triển rộng khắp. Hệ thống các trường sư phạm nhanh chóng
được hình thành ở khắp các tỉnh, thành, đào tạo thêm hàng vạn giáo viên mới.
Từ
năm 1986, thực hiện đường lối đổi mới toàn diện đất nước, lĩnh vực giáo dục và
đào tạo cũng có nhiều đổi mới, thể hiện ở sự phát triển rộng khắp mạng lưới các
trường học, sự tăng nhanh quy mô giáo dục, những chuyển biến bước đầu về chất
lượng giáo dục. Năm 2000, cả nước đã đạt chuẩn quốc gia về xóa mù chữ và phổ cập
giáo dục tiểu học; đến năm 2004, 20 tỉnh, thành phố đã đạt chuẩn phổ cập trung
học cơ sở; đến năm 2010, tất cả các tỉnh, thành phố đã đạt chuẩn phổ cập giáo dục
trung học cơ sở.
Đến
nay, mạng lưới cơ sở giáo dục mầm non tăng nhanh, từ 13.172 trường lên 15.384
trường mầm non và 6.518 nhóm trẻ độc lập, trường phổ thông sắp xếp lại từ
28.803 trường đến nay là 27.086 trường. Mạng lưới các cơ sở giáo dục đại học được
củng cố và phát triển ở khắp các khu dân cư lớn, các vùng, một số tỉnh/thành phố.
Tính đến năm học 2019 - 2020, cả nước có
237 trường đại học, học viện (bao
gồm 172 trường công lập, 60 trường tư thục và dân lập, 5 trường có 100% vốn nước
ngoài), 37 viện nghiên cứu khoa học được giao nhiệm vụ đào tạo trình độ tiến
sĩ, 33 trường cao đẳng sư phạm và 2 trường trung cấp sư phạm. Quy mô sinh viên
đại học, cao đẳng trong giai đoạn 2011 - 2020 tăng khoảng 2,4%.
Đội
ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục đã tăng mạnh về số lượng, chất lượng và
được chuẩn hóa, ngày càng đồng bộ về cơ cấu trong 10 năm qua. Tỷ lệ giáo viên đạt
chuẩn và trên chuẩn trình độ được đào tạo theo quy định của Luật giáo dục: đối
với mầm non đạt 96,6%, tiểu học đạt 99,7%, trung học cơ sở 99,0%, trung học phổ
thông 99,6%, đại học 82,7%; 100% cán bộ quản lý cơ sở giáo dục đạt chuẩn trình
độ được đào tạo theo cấp học tương ứng.
Các
điều kiện cơ sở vật chất, trang thiết bị giáo dục đào tạo được quan tâm đầu tư
và từng bước hiện đại hóa. Số trường lớp được xây dựng mới theo chuẩn quốc gia
ngày càng tăng. Năm học 2019 - 2020, tỷ lệ trường đạt chuẩn quốc gia ở cấp tiểu
học là 59,7%; cấp trung học cơ sở là 56,7%; cấp trung học phổ thông là 37,04%.
Triển khai có hiệu quả các chương trình, đề án hỗ trợ cơ sở vật chất; đồng thời
tạo cơ sở pháp lý và trách nhiệm để các địa phương huy động nguồn lực bảo đảm
cơ sở vật chất trường, lớp học tập.
Tỷ
lệ chi ngân sách cho giáo dục hằng năm của Việt Nam ở mức xấp xỉ 20%, tương
đương 5% GDP. So với các nước, trong khu vực, tỷ lệ chi tiêu công cho giáo dục
trên GDP của Việt Nam cao hơn hẳn nhiều nước, thậm chí so với các nước có trình
độ phát triển kinh tế cao hơn.
2. Công bằng xã hội trong tiếp cận giáo dục
có nhiều tiến bộ
Việc
thực hiện công bằng trong giáo dục đạt được những kết quả tích cực. Hệ thống
trường phổ thông dân tộc nội trú, bán trú được mở rộng hơn để phục vụ con em đồng
bào dân tộc thiểu số, từ 299 trường tăng lên 316 trường ở 49 tỉnh/thành phố trực
thuộc Trung ương, đáp ứng nhu cầu học tập của 109.445 học sinh nội trú; 28 tỉnh
có trường phổ thông dân tộc bán trú với quy mô 1.097 trường và 185.671 học sinh
bán trú. Tiếng nói, chữ viết của 8 dân tộc thiểu số đã được đưa vào giảng dạy ở
trường tiểu học; trong đó tiếng Hoa và tiếng Khmer được dạy cả ở trường trung học
cơ sở.
Mạng
lưới trung tâm giáo dục nghề nghiệp - giáo dục thường xuyên và trung tâm học tập
cộng đồng được duy trì, ổn định. 100% các tỉnh, thành phố có trung tâm giáo dục
thường xuyên cấp tỉnh, 84,7% huyện có trung tâm giáo dục thường xuyên cấp huyện
và 97,83% xã phường, thị trấn có trung tâm học tập cộng đồng. Mô hình hoạt động
của các trung tâm học tập cộng đồng được duy trì, củng cố, một số địa phương đã
lồng ghép các chương trình dự án với hoạt động của trung tâm học tập cộng đồng,
góp phần thiết thực nâng cao chất lượng cuộc sống và đóng vai trò quan trọng
trong việc đẩy nhanh tiến độ xây dựng nông thôn mới.
Hệ
thống Hội khuyến học đã phủ kín từ cấp tỉnh đến cấp xã với trên 17 triệu hội
viên là các cựu giáo viên, các nhà hoạt động chính trị, xã hội quan tâm thúc đẩy
sự nghiệp học tập cho mọi lứa tuổi. Cả nước có hơn 8 triệu gia đình đạt danh hiệu
“Gia đình học tập”, gần 40 nghìn dòng họ đạt danh hiệu “Dòng họ học tập”, hơn
62 nghìn “Cộng đồng học tập” cấp thôn bản, tổ dân số và 27,5 nghìn các tổ chức
nằm trên địa bàn hành chính cấp xã, do cấp xã quản lý đạt danh hiệu “Đơn vị học
tập”.
Ngoài
ưu tiên ngân sách cho giáo dục, Chính phủ còn có nhiều chính sách hỗ trợ khác,
như: thực hiện chính sách miễn, giảm học phí và hỗ trợ chi phí cho học sinh,
sinh viên nghèo; hỗ trợ phát triển giáo dục mầm non; hỗ trợ phát triển giáo dục
đối với con em đồng bào dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa; hỗ trợ học bổng và
phương tiện, đồ dùng học tập thực hiện chính sách giáo dục đối với người khuyết
tật... Các chương trình tín dụng ưu đãi dành cho sinh viên thông qua Ngân hàng
Chính sách xã hội đã tạo điều kiện cho hàng triệu học sinh, sinh viên thuộc hộ
nghèo, hộ cận nghèo và hộ có hoàn cảnh khó khăn được vay vốn học tập và lập
nghiệp.
3. Chất lượng
giáo dục và đào tạo được nâng lên
Chất
lượng chăm sóc, giáo dục trẻ mầm non: Năm học 2013 - 2014, cả nước mới có 18 tỉnh
được công nhận đạt chuẩn phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em 5 tuổi thì đến năm
2017, tất cả 63 tỉnh, thành phố đã hoàn thành phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ
em 5 tuổi. Nội dung chương trình giáo dục mầm non được đổi mới đã giúp trẻ tự
tin, chủ động trong giao tiếp và tham gia tích cực vào các hoạt động giáo dục;
trẻ có nhiều tiến bộ và phát triển tốt cả 5 lĩnh vực: thể chất, nhận thức, ngôn
ngữ, tình cảm và kỹ năng xã hội, thẩm mỹ. Tỷ lệ suy dinh dưỡng của trẻ dưới 5
tuổi giảm xuống đều đặn hằng năm.
Chất
lượng giáo dục phổ thông: Những năm gần đây, chất lượng giáo dục phổ thông nước
ta trở thành tâm điểm nghiên cứu của thế giới. Giáo dục hướng nghiệp đã được
quan tâm đổi mới về nội dung, đa dạng hóa các hình thức giáo dục hướng nghiệp
theo hướng thiết thực, tăng tính thực hành, gắn với thực tiễn. Giáo dục mũi nhọn
đã được chú trọng và tiếp tục đạt kết quả tốt. Học sinh Việt Nam khi tham dự
các kỳ thi Olympic quốc tế và khu vực, sáng tạo khoa học kỹ thuật quốc tế luôn
đứng ở vị trí tốp đầu. Tổng số Huy chương Vàng đạt được trong 5 năm qua tăng gần
gấp đôi so với 5 năm trước đó. Từ năm 2016 - 2019, Việt Nam có 187 lượt thí
sinh tham dự thi Olympic khu vực và quốc tế, đạt 146 giải (45 Huy chương Vàng,
60 Huy chương Bạc, 35 Huy chương Đồng và 6 Bằng khen).
Chất
lượng đào tạo đại học và đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao: Số công trình
khoa học được công bố trong nước và quốc tế tăng mạnh, vị thế các trường đại học
của Việt Nam đã được nâng lên trong bảng xếp hạng châu Á và thế giới. Năm 2019,
hệ thống giáo dục đại học Việt Nam xếp thứ 68/196 quốc gia trên thế giới, tăng
12 bậc so với năm 2018. Lần đầu tiên, Việt Nam có 3 cơ sở giáo dục đại học được
vào top 1.000 trường đại học tốt nhất thế giới; có 8 cơ sở giáo dục đại học Việt
Nam nằm trong danh sách 500 trường đại học hàng đầu Châu Á. Chất lượng nguồn
nhân lực đã có chuyển biến tích cực, trong những thành tựu về tăng trưởng và
phát triển kinh tế của đất nước 10 năm qua có phần đóng góp quan trọng của đội
ngũ lao động trình độ cao, mà đa số được đào tạo trong nước.
4. Công
tác quản lý giáo dục có bước chuyển biến tích cực
Từ
giữa thế kỷ XX đến nay, Việt Nam đã tiến hành nhiều cuộc cải cách giáo dục. Năm
1950, trong hoàn cảnh nước nhà còn muôn vàn khó khăn, nhưng cuộc cải cách giáo
dục lần đầu tiên nhằm mục tiêu xây dựng một nền giáo dục của dân, do dân và vì
dân. Đến năm 1956, cải cách giáo dục lần thứ hai hướng tới đào tạo, bồi dưỡng
thế hệ trẻ thành những công dân tốt, có đức, có tài. Năm 1981, cuộc cải cách
giáo dục lần thứ ba toàn diện hơn, đồng bộ hơn nhằm tạo bước chuyển biến mới về
hệ thống giáo dục, nội dung và phương pháp dạy học. Hiện nay, chúng ta đang
tích cực tiến hành một “cuộc cách mạng” về giáo dục với việc đổi mới căn bản,
toàn diện nền giáo dục theo tinh thần Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 04/11/2013 của
Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI), bảo đảm cho giáo dục Việt Nam phát
triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa, hội nhập quốc tế, thích ứng với cuộc
Cách mạng công nghiệp 4.0.
5. Hợp tác quốc tế được đẩy mạnh
Từ
năm 2004 đến năm 2016, Việt Nam đăng cai và tổ chức thành công nhiều kỳ thi quốc
tế: Olympic Vật lý châu Á (năm 2004), Olympic Toán học quốc tế (năm 2007),
Olympic Vật lý quốc tế (năm 2008), Olympic Hóa học quốc tế (năm 2014). Năm
2016, Việt Nam là nước chủ nhà của Cuộc thi Olympic Sinh học quốc tế lần thứ 27
- IBO 2016. Tính đến năm 2019, cả nước có tổng số 455 dự án FDI thuộc lĩnh vực
giáo dục đào tạo; các nước đã cấp khoảng 1.400 suất/năm cho lưu học sinh Việt
Nam đi học tập ở các trình độ từ đại học đến tiến sĩ và thực tập, nghiên cứu ở
nước ngoài.
VII- QUỐC PHÒNG - AN NINH
1.
Bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc,
lợi ích quốc gia, dân tộc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, Nhân dân và chế độ xã hội chủ
nghĩa; giữ vững an ninh quốc gia, ổn định chính trị - xã hội, trật tự an toàn
xã hội và môi trường hòa bình để tập trung xây dựng và phát triển đất nước
Đây
là thành tựu lớn nhất trên lĩnh vực quốc phòng - an ninh. 75 năm qua, dưới sự
lãnh đạo của Đảng, chúng ta đã giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn
lãnh thổ và định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo đảm môi trường hòa bình, ổn định
và an ninh cho sự phát triển đất nước; làm thất bại âm mưu, thủ đoạn chống phá
của các thế lực thù địch, góp phần quan trọng vào quá trình đổi mới đất nước,
nâng cao vị thế, uy tín Việt Nam trên trường quốc tế.
2. Xây dựng
toàn diện nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân
Trong
những năm qua, toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta đã tích cực triển khai thực
hiện xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân ở
từng khu vực và trên địa bàn cả nước; thực hiện tốt chủ trương kết hợp chặt chẽ
kinh tế, văn hóa, xã hội với quốc phòng, an ninh trong từng chiến lược, quy hoạch,
kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội. Đảng, Nhà nước, Quân đội tích cực đầu tư
xây dựng hệ thống hạ tầng cơ sở mang tính lưỡng dụng đáp ứng kịp thời cho thực
hiện nhiệm vụ quốc phòng - an ninh, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ tác chiến trong
tình hình mới.
Công
tác phối hợp giữa Quân đội nhân dân với Công an nhân dân được tiến hành nghiêm
túc, chặt chẽ, thống nhất từ Trung ương đến đơn vị cơ sở. Các đơn vị quân đội,
công an đã chủ động phối hợp để tham mưu với Đảng, Nhà nước giải quyết nhiều vụ
việc phức tạp về an ninh, trật tự, góp phần bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền,
thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, an ninh quốc gia và trật tự, an toàn xã hội.
Cùng
với việc xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân và thế trận an ninh nhân dân,
chúng ta đã ra sức xây dựng và củng cố “thế trận lòng dân” thông qua việc củng
cố vững chắc hệ thống chính trị để làm hạt nhân lãnh đạo, quản lý, tập hợp và
huy động sức mạnh tổng hợp cho sự nghiệp quốc phòng; xây dựng, củng cố và nâng
cao hiệu quả hoạt động của các tổ chức quần chúng góp phần xây dựng cơ sở chính
trị địa phương vững mạnh, củng cố quốc phòng, giữ vững ổn định chính trị, trật
tự, an toàn xã hội.
3. Hệ thống pháp luật về bảo vệ Tổ quốc, bảo
vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự an toàn xã hội ngày càng được hoàn thiện
Nhận
thức sâu sắc tầm quan trọng của nhiệm vụ củng cố quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc, những
năm qua, Đảng đã ban hành nhiều văn bản lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng, hoàn thiện
hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách về quốc phòng, nhằm kịp thời thể chế hóa
quan điểm, đường lối quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, như “Chiến
lược Bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới”; “Chiến lược Quốc phòng Việt Nam”;
“Chiến lược Quân sự Việt Nam”; “Chiến lược Bảo vệ Tổ quốc trên không gian mạng”;
“Chiến lược Bảo vệ an ninh quốc gia”; “Chiến lược Bảo vệ biên giới quốc gia”.
Nhà nước đã xây dựng, ban hành mới và bổ sung, hoàn thiện hệ thống văn bản pháp
luật về quốc phòng, an ninh: Luật An ninh quốc gia, Luật Sĩ quan Quân đội nhân
dân Việt Nam, Luật Nghĩa vụ quân sự, Luật Dân quân tự vệ, Luật Giáo dục quốc
phòng và an ninh, Luật Phòng, chống khủng bố, Luật Quân nhân chuyên nghiệp,
công nhân và viên chức quốc phòng, Luật Cảnh sát biển Việt Nam, Luật Nhập cảnh,
xuất cảnh và cư trú của người nước ngoài tại Việt Nam, Luật Tổ chức cơ quan điều
tra hình sự. Luật Quốc phòng, Luật Công an nhân dân…
Đây
là những bước tiến quan trọng, nhằm thể chế hóa đồng bộ các quan điểm của Đảng,
nhất là những tư duy, quan điểm mới về quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc bằng
các văn bản quy phạm pháp luật - cơ sở pháp lý quan trọng để tăng cường sức mạnh
quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu
quả quản lý nhà nước trong lĩnh vực quốc phòng.
4. Tiềm lực quốc phòng và an ninh được tăng
cường; xây dựng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh
nhuệ, từng bước hiện đại
Tiền
thân từ các đội vũ trang của quân khởi nghĩa Nam Kỳ, các đội Cứu quốc quân ở Việt
Bắc … xuất hiện trong thời kỳ đấu tranh giành chính quyền, lực lượng Quân đội
và Công an đã ra đời. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, lực lượng vũ trang nhân dân đã
lớn mạnh, trưởng thành và lập nên nhiều kỳ tích trong Tổng khởi nghĩa giành
chính quyền Tháng Tám năm 1945, trong các cuộc kháng chiến chống thực dân, đế
quốc xâm lược (1945 - 1975) cũng như trong thực hiện nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc hiện nay.
Quân
đội nhân dân và Công an nhân dân được xây dựng theo hướng cách mạng, chính quy,
tinh nhuệ, từng bước hiện đại; có bản lĩnh chính trị vững vàng, đấu tranh chống
các quan điểm sai trái, thù địch, kiên quyết bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng
là chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, là lực lượng trung kiên bảo vệ
Đảng, Nhà nước, bảo vệ nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa, giữ vững môi trường
hòa bình, ổn định đẻ phát triển đất nước. Quân đội nhân dân và Công an nhân dân
cũng là lực lượng tham gia tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện đường lối,
chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, góp sức xây dựng cơ sở
chính trị, tăng cường “trận địa lòng dân”, chủ động giúp nhân dân phát triển
kinh tế - xã hội, giữ gìn bản sắc văn hóa - dân tộc, củng cố khối đại đoàn kết
toàn dân; tích cực tham gia các phong trào “Đền ơn đáp nghĩa”, xóa đói giảm
nghèo, xóa mù chữ, gắn bó với đồng bào dân tộc thiểu số vùng biên giới, vùng
sâu, vùng xa, vùng căn cứ cách mạng, làm tốt vai trò tham mưu, góp phần chủ động
phòng ngừa, tấn công làm thất bại âm mưu “diễn biến hòa bình”, hoạt động gây rối,
bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch; đấu tranh, ngăn chặn và xử lý có hiệu
quả các hoạt động cơ hội chính trị, các loại tội phạm hình sự; tham gia tích cực,
có hiệu quả vào các chương trình phát triển kinh tế - xã hội, hoạt động cứu hộ,
cứu nạn, phòng, chống và khắc phục thiên tai.
Cùng
với xây dựng bộ đội chủ lực vững mạnh, Đảng, Nhà nước quan tâm đầu tư xây dựng
lực lượng dự bị động viên, dân quân tự vệ hùng hậu, rộng khắp. Toàn quốc đã đào
tạo được gần 24.400 cán bộ quân sự cấp xã chuyên ngành quân sự cơ sở, qua đó đã
nâng cao trình độ, năng lực tham mưu cho cấp ủy, chính quyền cấp xã trong thực
hiện nhiệm vụ quân sự, quốc phòng địa phương. Đã tập trung xây dựng dân quân tự
vệ biển thực sự trở thành lực lượng quan trọng phối hợp cùng các lực lượng đấu
tranh bảo vệ chủ quyền biển, đảo, bảo vệ ngư dân, sẵn sàng chiến đấu, phục vụ
chiến đấu. Dân quân tự vệ, công an viên thực sự là lực lượng chính trị tin cậy
của cấp ủy, chính quyền và nhân dân ở cơ sở.
5. Hợp tác quốc tế về quốc phòng, an ninh đạt
nhiều kết quả
Đối
ngoại quốc phòng, an ninh tiếp tục khẳng định là kênh quan trọng, cùng với đối
ngoại Đảng, ngoại giao nhà nước, đối ngoại nhân dân, đấu tranh bảo vệ chủ quyền
lãnh thổ bằng các biện pháp hòa bình, trên cơ sở luật pháp quốc tế, góp phần trực
tiếp xây dựng lòng tin chiến lược, nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc
tế. Việt Nam đã có quan hệ, hợp tác về quốc phòng, an ninh với các đối tác chủ
chốt, phù hợp với các quan hệ song phương theo các khuôn khổ của đối tác chiến
lược toàn diện, đối tác chiến lược và đối tác hợp tác toàn diện tập trung vào
những lĩnh vực phù hợp, có trọng tâm, trọng điểm. Hoạt động đối ngoại quốc
phòng, an ninh không ngừng được mở rộng trên nhiều lĩnh vực quốc phòng, quân sự,
kinh tế, khoa học và công nghệ, phát triển cả bề rộng và chiều sâu. Đến năm
2019, chúng ta đã thiết lập quan hệ quốc phòng với hơn 80 quốc gia và tổ chức
quốc tế; có 50 nước đặt tùy viên quân sự tại Việt Nam, trong đó 28 nước thường
trú và 22 nước kiêm nhiệm. Quân đội đã cử 37 lượt sĩ quan và tổ chức 2 bệnh viện
dã chiến cấp 2 (mỗi bệnh viện gồm 64 quân nhân) sang tham gia Phái bộ Gìn giữ
hòa bình của Liên Hợp quốc tại Cộng hòa Trung Phi và Nam Xuđăng.
VIII- ĐỐI
NGOẠI VÀ HỘI NHẬP QUỐC TẾ
1. Công
tác đối ngoại đã góp phần duy trì, củng cố môi trường hòa bình ổn định, giữ vững
độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa
Đường
lối đối ngoại của Đảng, Nhà nước ta được hình thành rõ nét và phát huy mạnh mẽ
ngay sau khi Cách mạng tháng Tám thành công. Đến khi cuộc kháng chiến chống thực
dân Pháp bùng nổ, các hoạt động đối ngoại được xúc tiến nhằm đề cao chính
nghĩa, tranh thủ sự ủng hộ của nhân dân Pháp, chính phủ và nhân dân các nước
khác đối với cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam.
Từ
những năm 50 thế kỷ XX, hoạt động đối ngoại được triển khai gồm ba kênh: đối
ngoại Đảng, ngoại giao nhà nước và đối ngoại nhân dân; cùng bổ sung, hỗ trợ cho
nhau, làm cho hoạt động đối ngoại thêm phong phú, linh hoạt, thực hiện có hiệu
quả đường lối đối ngoại chung, phục vụ đắc lực và thiết thực nhất mục tiêu cách
mạng ở từng thời kỳ, góp phần vào đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất
nước và xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Cuối
những năm 80 của thế kỷ XX, tình hình thế giới có những biến đổi sâu sắc và phức
tạp. Đại hội VII của Đảng đã đề ra đường lối đối ngoại “đa dạng hóa, đa phương
hóa quan hệ quốc tế” với tinh thần “Việt Nam muốn là bạn với tất cả các nước
trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển”. Đại hội
IX đề ra tiếp tục “Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, rộng
mở, đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế. Việt Nam sẵn sàng là bạn,
là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hòa bình,
độc lập và phát triển”. Thực hiện đường lối đó, Việt Nam đã bình thường hóa
quan hệ với Trung Quốc (năm 1991), với Mỹ (năm 1995).
Đến
nay, Việt Nam đã thiết lập quan hệ tốt với tất cả các nước lớn, trong đó có 5
nước Thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc, toàn bộ 7 nước G7 và 17/20 nước
thành viên G20. Thiết lập và nâng cấp nhiều mối quan hệ lên đối tác chiến lược,
đối tác chiến lược toàn diện. Chỉ riêng trong 5 năm (2016 - 2020), Việt Nam đã
thiết lập đối tác chiến lược với 3 nước, nâng đối tác chiến lược lên đối tác
toàn diện với 1 nước, thiết lập đối tác toàn diện với 5 nước, nâng tổng số quan
hệ đối tác chiến lược, đối tác toàn diện lên 30 nước. Số lượng các cơ quan đại
diện của Việt Nam ở nước ngoài cũng tăng lên (91 cơ quan) với 65 đại sứ quán,
20 tổng lãnh sự quán, 4 phái đoàn thường trực bên cạnh các tổ chức quốc tế, 1
văn phòng kinh tế văn hóa. Quan hệ với các đối tác hàng đầu không chỉ phát triển
mạnh trên kênh Nhà nước, mà còn được đẩy mạnh trên cả kênh Đảng với nhiều hoạt
động cấp cao vừa mang ý nghĩa chính trị, vừa có nhiều nội dung hợp tác thực chất,
hiệu quả.
Việt
Nam duy trì mối quan hệ tốt với các nước láng giềng và khu vực. Mặc dù có nhiều
diễn biến phức tạp trên Biển Đông nhưng chúng ta đã khéo léo, kiên trì, kiên
quyết đấu tranh bằng nhiều hình thức, biện pháp phù hợp, được cộng đồng quốc tế
đánh giá cao, vừa bảo vệ được độc lập, chủ quyền, quyền chủ quyền, vừa giữ vững
được môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước. Việt Nam cùng ASEAN
và Trung Quốc tích cực tham gia đàm phán về COC, đẩy mạnh trao đổi về phân định
vùng đặc quyền kinh tế với Inđônêxia, tiếp tục duy trì các cơ chế đàm phán với
Trung Quốc ở khu vực ngoài cửa Vịnh Bắc Bộ và tích cực nghiên cứu các khả năng
hợp tác cùng phát triển. Chúng ta cũng đã hoàn thành việc tăng dày, tôn tạo mốc
giới với Lào; đang triển khai việc thực hiện Nghị định thư và Hiệp định Quy chế
biên giới Việt - Lào. Với Campuchia, hai nước cũng đã hoàn thành 84% việc phân
giới cắm mốc và đang xúc tiến hoàn tất văn kiện ghi nhận những kết quả đã đạt
được.
Công
tác đối ngoại đã phối hợp chặt chẽ với công tác bảo vệ pháp luật trong việc đẩy
lùi, vô hiệu hóa các âm mưu và hành động chống phá Đảng, Nhà nước ta về dân chủ,
nhân quyền, tôn giáo; bảo hộ công dân và người Việt Nam ở nước ngoài; đấu tranh
bảo vệ quyền và chủ quyền lãnh thổ quốc gia, bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa.
2. Công
tác đối ngoại và hội nhập quốc tế đã đóng góp tích cực vào việc thực hiện các mục
tiêu phát triển kinh tế - xã hội
Việt
Nam chủ động tham gia các tổ chức kinh tế quốc tế: Hiệp hội các quốc gia Đông
Nam Á (ASEAN) năm 1995, tham gia Diễn đàn hợp tác Á - Âu (ASEM) năm 1996, Diễn
đàn hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC) năm 1998, Tổ chức Thương mại
quốc tế (WTO) năm 2007. Việt Nam đã có mối quan hệ tích cực với các tổ chức tài
chính tiền tệ quốc tế như Ngân hàng Thế giới, Quỹ tiền tệ thế giới, Ngân hàng
phát triển Á Châu …
Việt
Nam ngày càng đóng vai trò quan trọng trong ASEAN, duy trì và củng cố quan hệ của
ASEAN với các đối tác bên ngoài, đóng góp quan trọng vào việc xây dựng Cộng đồng
Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (Cộng đồng ASEAN) và Hiến chương ASEAN; tham
gia tích cực, có trách nhiệm với các diễn đàn khu vực và quốc tế như Hội đồng
nhân quyền Liên Hợp quốc nhiệm kỳ 2014 - 2016, Ủy ban Kinh tế - xã hội Liên Hợp
quốc nhiệm kỳ 2016 - 2018, Ủy ban Di sản thế giới của UNESCO nhiệm kỳ 2013 -
2017, Lực lượng gìn giữ hòa bình Liên hợp quốc (PKO), Ủy viên không thường trực
Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc.
Không
chỉ tham gia các hoạt động đa phương đơn thuần, Việt Nam còn tích cực đóng góp
để xây dựng, định hình các thể chế, luật lệ, chuẩn mực đa phương, đóng vai trò
tích cực hơn trong các cơ chế quản trị toàn cầu và xây dựng quan hệ hợp tác
ngày càng tốt đẹp với nhiều cơ chế, tổ chức, sáng kiến quốc tế. Các nước lớn
ngày càng coi trọng vị thế của Việt Nam trong chiến lược ở khu vực và trên thế
giới.
Việt
Nam chủ động và tích cực trong việc đàm phán và ký kết các Hiệp định thương mại
tự do (FTA), hội nhập sâu và toàn diện hơn vào nền kinh tế khu vực và thế giới.
Việc ký các hiệp định thương mại đã mở rộng và đa dạng hóa thị trường, quan hệ
bạn hàng với nhiều nền kinh tế phát triển và không để nền kinh tế đất nước rơi
vào tình trạng bị lệ thuộc vào một thị trường, góp phần đưa quan hệ của Việt
Nam với các đối tác chiến lược, đối tác toàn diện vào chiều sâu.
Vị
thế trong các tổ chức và các mối quan hệ đối ngoại đã góp phần làm cho đất nước
đạt được những thành quả quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội. Hiện
nay, Việt Nam đã ký kết và đi vào triển khai hàng trăm thỏa thuận hợp tác quốc
tế ở các cấp từ trung ương tới địa phương, thu hút nguồn lực to lớn cho phát
triển đất nước. Dòng vốn đầu tư nước ngoài vào nước ta không ngừng tăng cao.
Riêng giai đoạn 2016 - 2020, dòng vốn FDI tính đến 20/02/2020 có 31.434 dự án
có hiệu lực của 126 quốc gia và vùng lãnh thổ với tống số vốn đăng ký là 370 tỉ
USD. Kim ngạch xuất nhập khẩu liên tục tăng trưởng, cải thiện đáng kể cán cân
thương mại. Văn hóa, du lịch, quốc phòng - an ninh, khoa học - công nghệ … đều
đạt những thành quả quan trọng.
75
năm qua, từ khi Cách mạng Tháng Tám thành công và sự ra đời Nước Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa, đất nước ta, nhân dân ta đã trải qua bao khó khăn, gian khổ từ
nhiệm vụ đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước cũng như xây dựng,
phát triển vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Những thành tựu đạt được
trong 75 năm qua là công lao, cống hiến to lớn của toàn Đảng, toàn dân và toàn
quân ta và sự giúp đỡ quý báu của bạn bè quốc tế. Chúng ta tự hào về những
thành tựu to lớn đó, đúng như lời Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng
đã nhấn mạnh: "Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và
uy tín như ngày nay" và phát huy cao độ niềm tự hào trong sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; phấn đấu thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội
XIII của Đảng trong năm 2021 và những năm tiếp theo với bước phát triển mới hướng
tới kỷ niệm 100 năm Ngày thành lập Đảng, 100 năm Ngày thành lập nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
- Tuổi trẻ Cam Lộ chung tay phòng, chống dịch bệnh COVID-19
- Đoàn khối Cơ quan và Doanh nghiệp tỉnh ủng hộ kinh phí cùng nhu yếu phẩm cho đội ngũ y, bác sĩ trong công tác phòng, chống dịch bệnh COVID-19
- Tổ chức thăm, tặng các trang thiết bị y tế “tiếp sức” cho các lực lượng tuyến đầu chống dịch COVID-19
Đang truy cập: 10
Hôm nay: 204
Tổng lượt truy cập: 1,302,717