“Thưa Ngài!
Tôi tài đức ít ỏi, mà trách nhiệm nặng nề. Thấy Ngài học vấn cao siêu, kinh
nghiệm phong phú. Vậy nên, tôi mời Ngài làm cố vấn cho tôi, để giúp thêm ý kiến
trong công việc hưng lợi, trừ hại cho nước nhà dân tộc. Cảm ơn và chúc Ngài
mạnh khỏe. Kính thư Hồ Chí Minh”.

Tiết mục nghệ thuật tái hiện lịch sử tại Lễ kỷ niệm
130 năm Ngày sinh
Trưởng ban Thường trực Quốc hội Bùi Bằng Đoàn, diễn ra sáng
16/9/2019, tại Hà Nội. (Ảnh: TTXVN)
Bức
thư với lời lẽ khiêm cung và trân trọng này do Chủ tịch Hồ Chí Minh tự tay đánh
máy gửi ngày 17-11-1945. Người nhận thư là cụ Bùi Bằng Đoàn (1889-1955), từng
làm Tri huyện, Tri phủ Xuân Trường (tỉnh Nam Định), Án sát tỉnh Bắc Ninh, Tuần
phủ các tỉnh Cao Bằng, Ninh Bình, Thượng thư Bộ Hình của triều đình Huế, hàm
Thái tử Thiếu bảo trong nội các của Phạm Quỳnh năm 1933
Mến
mộ tài năng, đức độ thanh liêm, chính trực của cụ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã mời
cụ đảm nhiệm nhiều công việc quan trọng của quốc gia và xem cụ như một người
bạn tri âm, cùng chí hướng vì nước, vì dân.
MỘT
VỊ QUAN THANH LIÊM, CHÍNH TRỰC
Cụ
Bùi Bằng Đoàn sinh ngày 19-9-1889 trong một gia đình có truyền thống Nho học
tại làng Liên Bạt, huyện Ứng Hòa, tỉnh Hà Đông (nay thuộc thành phố Hà Nội). Từ
trẻ cụ đã có kiến thức uyên thâm, thông thạo Hán văn và cũng rất giỏi Toán và
tiếng Pháp. Năm 17 tuổi, cụ Bùi Bằng Đoàn đã đỗ cử nhân khoa thi Hương “trường
Nam thi lẫn với trường Hà” năm Bính Ngọ (1906) triều vua Thành Thái và từ đó,
quan lộ hanh thông. Khi làm quan, cụ nổi tiếng là vị quan đức độ, thanh liêm,
chính trực, chăm dân, được nhà vua sủng ái, các quan trong triều kính trọng,
nhân viên và các quan chức dưới quyền ngưỡng mộ, được nhân dân kính trọng, tin
cậy.
Có
nhiều câu chuyện về cụ Bùi Bằng Đoàn thời kỳ làm quan trước Cách mạng Tháng Tám
1945. Trên công đường, ở những nơi cụ làm quan đều có treo một bảng thông báo
“không nhận quà biếu”. Cụ nghiêm khắc cấm người nhà không nhận quà. Lúc ở Xuân
Trường, Nam Định, với tư cách quan Tri phủ, cụ đề xuất việc đắp đê Bạch Long
ngăn nước mặn, nhờ đó mà một vùng đất đai phì nhiêu, rộng lớn được tạo lập. Nhớ
ơn cụ, người dân địa phương đã làm lễ tế sống vị “phụ mẫu chi dân” trẻ tuổi
ngay nơi nhậm chức. Khi còn làm Tri phủ Nghĩa Hưng (tỉnh Nam Định), nhờ tinh
thông Pháp văn, cụ được mời lên Hà Nội làm thông ngôn cho phiên tòa đại hình xử
vụ án cụ Phan Bội Châu. Với tính cách cương trực, bênh vực lẽ phải, cụ Bùi Bằng
Đoàn đã thông dịch rõ ràng, trung thực những lời nói, lý lẽ đanh thép của cụ
Phan Bội Châu, nhờ đó, Tòa án đã không khép được cụ Phan vào án chung thân mà
buộc phải giảm xuống hình thức “an trí ở Huế”. Khi làm Án sát tỉnh Bắc Ninh, cụ
được mời tham dự phiên tòa đề hình xét xử đồng chí Nguyễn Văn Cừ, Tổng Bí thư
Đảng Cộng sản Đông Dương. Khâm phục tinh thần cách mạng của đồng chí Nguyễn Văn
Cừ, nên khi nghị án thực dân Pháp đã định án tử nhưng cụ đã tìm mọi cách để
giảm tội tử hình xuống khổ sai đày đi Côn Đảo.
Năm
1925, trước việc báo chí phản ánh cảnh phu điền ở Nam Kỳ bị bóc lột dã man,
Chính phủ Nam Triều đã cử cụ Bùi Bằng Đoàn vào thanh tra các đồn điền cao su
của Pháp. Là người công minh, liêm khiết, mẫn cán và tác phong làm việc cẩn
trọng, khoa học, cụ Bùi Bằng Đoàn đã tiến hành điều tra trực tiếp, thấu đáo tại
45 đơn vị đồn điền cao su thuộc các tỉnh: Biên Hòa, Bà Rịa, Thủ Dầu Một, Tây
Ninh, Chợ Lớn và Gia Định. Nội dung điều tra tập trung chủ yếu vào việc tổ chức
sản xuất, sử dụng lao động, nhất là người lao động ở các tỉnh Bắc Kỳ vào và đời
sống người lao động thông qua tiền lương, điều kiện ăn ở, sinh hoạt, số giờ lao
động trong ngày, số tiền lãi của chủ đồn điền… Kết thúc cuộc điều tra, cụ đã
viết báo cáo, kiến nghị dày 100 trang bằng tiếng Pháp nêu trung thực, khách
quan, công minh và đầy đủ những điều vô lý trong chính sách đối với phu đồn
điền. Nhờ đó đã được nhà đương cục lúc bấy giờ chấp nhận giảm thiểu những chế
độ hà khắc đối với công nhân đồn điền cao su thời đó.
Năm
1933, cụ Bùi Bằng Đoàn được bổ nhiệm làm Tuần phủ Ninh Bình. Sau đó, khi Phạm
Quỳnh tổ chức lại nội các, cụ được bổ nhiệm làm Thượng thư bộ Hình. Trên cương
vị Thượng thư bộ Hình, cụ Bùi Bằng Đoàn đã có công lớn trong việc cải cách tư
pháp, sửa đổi luật pháp, bãi bỏ nhiều quy định lỗi thời của hệ thống tư pháp cổ
xưa trên 17 tỉnh, đạo thuộc Trung Kỳ. Đồng thời, cụ đã tấu trình và được nhà
vua chấp thuận việc biên soạn, ban hành một số luật mới có nội dung tiến bộ, tổ
chức các tòa án và quy định cơ chế tư pháp tân tiến, lựa chọn và đào tạo thẩm
phán và đội ngũ nhân viên chuyên môn nghiệp vụ chuyên trách… Sau này nhiều
người được tiếp tục phục vụ trong các cơ quan pháp luật của cách mạng.
ĐÓNG GÓP TO LỚN ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG
THANH TRA, LẬP PHÁP
Cách
mạng Tháng Tám thành công, từ một vị quan thanh liêm, chính trực làm việc dưới
triều đình phong kiến, nhận thức được trách nhiệm của mình với Tổ quốc, khâm
phục, kính trọng tài đức, lý tưởng lớn lao, trong sáng và tinh thần, nghị lực
đấu tranh vì độc lập dân tộc, tự do, hạnh phúc cho nhân dân Việt Nam của Chủ
tịch Hồ Chí Minh và tin tưởng vào vận mệnh nước nhà, cụ Bùi Bằng Đoàn đã nhận
lời tham gia Uỷ ban kiến thiết quốc gia, tham gia Ban Cố vấn riêng của Chủ tịch
Hồ Chí Minh, rồi trở thành Trưởng ban Thanh tra đặc biệt của Chính phủ, Trưởng
ban Thường trực Quốc hội… Trên cương vị và trọng trách nào do Chủ tịch Hồ Chí
Minh và Chính phủ giao, cụ Bùi Bằng Đoàn cũng thể hiện là một người thanh liêm,
chính trực, một lòng đi theo cách mạng.
Khi ở
vị trí Trưởng ban Thanh tra đặc biệt của Chính phủ, hoạt động chỉ có hai người
nhưng với kinh nghiệm phong phú, cộng với sự giúp đỡ của Chính phủ và Chủ tịch
Hồ Chí Minh, cụ Bùi Bằng Đoàn đã tham mưu kịp thời chấn chỉnh những bất cập
trong hoạt động của bộ máy nhà nước, giúp giữ nghiêm kỷ cương phép nước, chấn
chỉnh đội ngũ cán bộ trong cơ quan chính quyền. Đặc biệt, cụ đã tham mưu cho
Chính phủ ban hành những sắc lệnh có tác động tích cực đến đời sống xã hội, như
Sắc lệnh số 40/SL về việc Bảo vệ tự do cá nhân do Chủ tịch Hồ Chí Minh ký ngày
29-3-1946. Đây là sắc lệnh đầu tiên quy định cụ thể những trường hợp bắt người,
giam cứu, nơi giam cứu, cấm tra tấn để lấy cung, bảo vệ quyền tự do của mỗi
công dân Việt Nam, giúp cho Ban Thanh tra đặc biệt giải quyết các vụ việc oan
trái được nhanh chóng.
Không
những vậy, từ công tác thanh tra, cụ đã tổng kết thực tiễn, đặt những viên gạch
đầu tiên xây dựng tư tưởng thanh tra nhân dân, thanh tra cách mạng Việt Nam sau
này.
Ngày
6-1-1946, cuộc bầu cử Quốc hội đầu tiên được tổ chức trong phạm vi toàn quốc,
với sự tham gia của tất cả các đảng phái trong nước, thu hút mọi tầng lớp trong
xã hội. Cụ Bùi Bằng Đoàn với chức danh cố vấn của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Trưởng
Ban Thanh tra đặc biệt của Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa,
được Hồ Chủ tịch giới thiệu ra ứng cử đại biểu Quốc hội khóa I và đã trúng cử
đại biểu của tỉnh Hà Đông (cũ) với số phiếu bầu rất cao.
Tại
kỳ họp thứ nhất Quốc hội khóa I nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa nay là nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, cụ Bùi Bằng Đoàn được bầu làm Ủy viên chính thức
Ban Thường trực Quốc hội. Lúc này nhiệm vụ chính của cụ vẫn là ở Ban Thanh tra
đặc biệt của Chính phủ nhưng cụ đã tham gia một số hoạt động đối ngoại của Chính
phủ, như tham gia đàm phán với Chính phủ Pháp sau khi ký Hiệp ước sơ bộ ngày
6-3-1946. Tại kỳ họp thứ hai Quốc hội khóa I (tháng 11-1946), cụ được bầu làm
Trưởng ban Thường trực Quốc hội. Trên cương vị Trưởng ban Thường trực Quốc hội,
cụ đã phát huy vai trò, trách nhiệm và những đóng góp cho hoạt động lập pháp,
đặc biệt là việc tập hợp lực lượng đoàn kết toàn dân, kháng chiến chống Pháp.
Ngoài
các hoạt động đối nội, lập pháp, cụ Bùi Bằng Đoàn còn tích cực tham gia các
hoạt động đối ngoại, thường xuyên trả lời phỏng vấn báo chí, đài phát thanh
trong và ngoài nước về một số vấn đề trọng đại của đất nước, về chủ quyền của
Việt Nam trong thời gian trước và sau khi hai đoàn đại biểu Việt Nam và Pháp ký
Hiệp ước 6-3-1946 tại Đà Lạt.
Hiệp
định Giơnevơ được ký kết, ngày 10-10-1954, Thủ đô Hà Nội hoàn toàn giải phóng,
cụ trở về Hà Nội. Thời gian này, công việc của Quốc hội cũng như các cơ quan
Trung ương rất bộn bề. Với tư cách là Trưởng ban Thường trực Quốc hội, cụ đã có
nhiều ý kiến đóng góp, cùng Ban Thường trực Quốc hội trong việc tiến hành ổn
định tổ chức và hoạt động của Quốc hội, xem xét việc chuẩn bị thông qua nhiều
văn bản pháp luật của Chính phủ nhằm bảo đảm thành công trong công việc kiến
quốc theo chủ trương, đường lối của Đảng và nguyện vọng của toàn dân.
TÌNH BẠN VỚI HỒ CHỦ TỊCH
Theo
lời kể của nhà văn Sơn Tùng, trong những năm tháng đầu độc lập, giới nhân sĩ,
trí thức, văn nghệ sĩ đàm luận nhiều về “Hồ Chủ tịch trọng dụng hiền tài”.
Trường hợp cụ Bùi Bằng Đoàn, đúng là Người đã “tam cố thảo lư”. Hồ Chủ tịch mời
hai lần, cụ đều xin Người miễn cho vì lý do sức khỏe và thấy mình ở cái tuổi
“vãn niên” rồi. Lần thứ nhất, cụ viện lý do là quan lại cấp cao của Nam triều
quá lâu, không hiểu gì về thời thế, sợ không đóng góp được gì cho cách mạng,
nên không dám nhận. Hồ Chủ tịch kiên trì gửi lá thư thứ hai, cử Bí thư riêng,
trao cho cụ một câu thơ cổ 7 chữ: “Thu thủy tàn hà thính vũ thanh”. Ý nghĩa câu
thơ cổ mỗi người luận giải một thẩm độ khác nhau, nhưng đều cùng một tương đắc.
Đọc xong câu đó, trong lòng cụ đã có nguyện ý của mình.
Năm
1947-1948, cụ hoạt động ở chiến khu Việt Bắc. Tết chiến khu năm 1948, trong
không khí đầu xuân chiến thắng, Hội đồng Chính phủ họp và liên hoan lửa trại.
Chủ tịch Hồ Chí Minh tặng cụ một bài thơ bằng chữ Hán:
Khán
thư sơn điểu thê song hãn
Phê
trát xuân hoa chiếu nghiễn trì
Tiệp
báo tần lai lao dịch mã
Tư
công tức cảnh tặng tân thi
Dịch
là:
Xem
sách chim rừng vào cửa đậu
Phê
văn hoa núi chiếu nghiên soi
Tin
vui thắng trận dồn chân ngựa
Nhớ
cụ thơ xuân tặng một bài
Cụ
Bùi Bằng Đoàn đã họa lại như sau:
Thiết
thạch nhất tâm phù chủng tộc
Giang
sơn vạn lý thủ thành trì
Tri
công quốc sự vô dư hạ
Thao
bút nhưng thành thoái lỗ thi
Dịch
là:
Sắt
đá một lòng vì chủng tộc
Non
sông muôn dặm giữ cơ đồ
Biết
Người việc nước không hề rảnh
Vung
bút thành thơ đuổi giặc thù
Từ
Thượng thư Bộ Hình Nam triều nổi tiếng thanh liêm, chính trực, cụ Bùi Bằng Đoàn
đã tham gia chính quyền cách mạng cho thấy tinh thần dân tộc, ý thức trách
nhiệm với đất nước và sự trân trọng đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh. Tấm lòng tận
trung với nước, tận hiếu với dân của cụ Bùi Bằng Đoàn là một tấm gương sáng để
chúng ta kính trọng và noi theo./.
Vân Anh
(Tạp chí của Ban Tuyên giáo Trung ương)
Đang truy cập: 239
Hôm nay: 884
Tổng lượt truy cập: 1,213,329