Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí
Minh về ý chí tự lực, tự cường và khát vọng xây dựng đất nước phồn vinh, hạnh
phúc là sự vận dụng và phát triển sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh trong bối cảnh
hiện nay, góp phần vào việc thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng.
TƯ TƯỞNG, ĐẠO ĐỨC, PHONG CÁCH HỒ CHÍ
MINH VỀ Ý CHÍ TỰ LỰC, TỰ CƯỜNG VÀ KHÁT VỌNG XÂY DỰNG ĐẤT NƯỚC PHỒN VINH, HẠNH
PHÚC
Thứ nhất, về ý chí tự lực, tự cường.
Một là, ý chí tự lực, tự cường là không phụ thuộc vào lực lượng
bên ngoài, có quan điểm độc lập trong quan hệ quốc tế. Nguyễn Ái Quốc cho rằng,
cách mạng ở các nước thuộc địa (trong đó có Việt Nam) hoàn toàn có thể chủ động
giành thắng lợi, không phụ thuộc việc cách mạng ở chính quốc có thắng lợi hay
không. Nguyễn Ái Quốc nêu rõ quyết tâm, ý chí, phương pháp cách mạng, thể hiện
sâu sắc quan điểm tự lực, tự cường trong đấu tranh cách mạng: “Đối với tôi, câu
trả lời đã rõ ràng: trở về nước, đi vào quần chúng, thức tỉnh họ, tổ chức họ,
đoàn kết họ, huấn luyện họ, đưa họ ra đấu tranh giành tự do độc lập”1.
Hai là, ý chí tự lực, tự cường là phải nhận thức rõ sức mạnh của
chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc với chủ nghĩa quốc tế trong sáng. Hồ
Chí Minh khẳng định, nhân tố mang tính quyết định của cách mạng giải phóng dân
tộc chính là sức mạnh của toàn dân tộc.
Trong tác phẩm Đường Kách mệnh (năm 1927), Người viết: “Chỉ ước
ao sao đồng bào xem rồi thì nghĩ lại, nghĩ rồi thì tỉnh dậy, tỉnh rồi thì đứng
lên đoàn kết nhau mà làm cách mệnh”2.
Nêu cao tinh thần độc lập tự chủ, tự lực, tự cường “đem sức ta mà tự giải phóng
cho ta” nhưng “phải củng cố tình đoàn kết hữu nghị giữa nhân dân ta và nhân dân
các nước bạn, nhân dân Pháp, nhân dân yêu chuộng hòa bình thế giới”. Người nhấn
mạnh vấn đề có tính nguyên tắc: “Muốn người ta giúp cho, thì trước mình phải tự
giúp lấy mình đã”3.
Ba là, ý chí tự lực, tự cường là sự chủ động, chuẩn bị mọi mặt
các điều kiện của cách mạng.
Theo Hồ Chí Minh, điều kiện trước hết là phải có một Đảng cách
mệnh, “để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với dân
tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi. Đảng có vững cách mệnh mới thành
công, cũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy. Đảng muốn vững thì phải
có chủ nghĩa làm cốt, trong đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải theo chủ nghĩa
ấy. Đảng mà không có chủ nghĩa cũng như người không có trí khôn, tàu không có
bàn chỉ nam”4.
Cương lĩnh chính trị đầu tiên do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo được
thông qua tại Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam đã nhấn mạnh đấu tranh
giải phóng dân tộc, chống chủ nghĩa đế quốc thực dân và chế độ phong kiến đã
suy tàn, thực hiện mục tiêu chiến lược: “Làm cho nước Nam được hoàn toàn độc
lập”, “làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội
cộng sản”5.
Sau 30 năm hoạt động ở nước ngoài, ngày 28/01/1941, lãnh tụ Hồ
Chí Minh trở về Tổ quốc, trực tiếp lãnh đạo phong trào cách mạng. Tại Hội nghị
Trung ương 8, Người cùng Trung ương Đảng quyết định những vấn đề lớn của cách
mạng như hoàn chỉnh chủ trương chuyển hướng chỉ đạo chiến lược cách mạng, đặt
nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu, xử lý đúng đắn đấu tranh dân tộc và
đấu tranh giai cấp, lợi ích dân tộc và lợi ích giai cấp, quyết tâm giành cho
được độc lập dân tộc.
Bốn là, ý chí tự lực, tự cường là đặc biệt chú trọng phát huy
vai trò, sức mạnh của nhân dân.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, “nhân dân” là phạm trù cao quý
nhất. Người nói: “Trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân. Trong thế giới
không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân”6.
Người khẳng định, dân khí mạnh thì binh lính nào, súng ống nào cũng không địch
nổi. “Nếu lãnh đạo khéo thì việc gì khó khăn mấy và to lớn mấy, nhân dân cũng
làm được”7.
Trong Thư kêu gọi tổng khởi nghĩa, Người nêu rõ: “Hỡi đồng bào
yêu quý! Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc ta đã đến. Toàn quốc đồng bào hãy
đứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng cho ta... Chúng ta không thể chậm trễ.
Tiến lên! Tiến lên! Dưới lá cờ Việt Minh, đồng bào hãy dũng cảm tiến lên!”8. Trong Lời kêu gọi toàn quốc kháng
chiến, ngày 19/12/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ: “Hỡi đồng bào! Chúng ta
phải đứng lên! Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không chia
tôn giáo, đảng phái, dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực
dân Pháp để cứu Tổ quốc. Ai có súng dùng súng. Ai có gươm dùng gươm, không có
gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy gộc. Ai cũng phải ra sức chống thực dân Pháp
cứu nước”9. Trong Lời kêu gọi “Không
có gì quý hơn độc lập, tự do” ngày 17/7/1966, Chủ tịch Hồ Chí Minh, đã nêu rõ:
“Chiến tranh có thể kéo dài 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa, Hà Nội, Hải
Phòng và một số thành phố, xí nghiệp có thể bị tàn phá, song nhân dân Việt Nam
quyết không sợ! Không có gì quý hơn độc lập, tự do. Đến ngày thắng lợi, nhân
dân ta sẽ xây dựng lại đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn”10.
Năm là, ý chí tự lực, tự cường là quyết tâm bảo vệ và giữ vững
nền độc lập dân tộc.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về quyết tâm bảo vệ và giữ vững độc lập dân
tộc, “nhất định không chịu mất nước, không chịu làm nô lệ”, “không có gì quý
hơn độc lập tự do”, thể hiện rất rõ khi Tổ quốc bị lâm nguy, khi dân tộc phải
đương đầu với những kẻ thù có sức mạnh kinh tế - quân sự vào hàng cường quốc
thế giới, chống lại âm mưu áp đặt chế độ áp bức, bóc lột của chủ nghĩa đế quốc
thực dân.
Ngay sau khi nền độc lập ra đời, đất nước ta đã phải chuẩn bị
cho một cuộc kháng chiến không thể tránh khỏi. Trong Lời kêu gọi toàn quốc
kháng chiến, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ: “Chúng ta muốn hoà bình, chúng ta
phải nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới,
vì chúng quyết tâm cướp nước ta lần nữa! Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả,
chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”11.
Thứ hai, về khát vọng phát triển đất
nước phồn vinh, hạnh phúc.
Một là, xây dựng, phát triển đất nước giàu mạnh, cường thịnh,
nâng cao dân trí, bồi dưỡng nhân tài. Chủ tịch Hồ Chí Minh mong muốn xây dựng
đất nước giàu mạnh, mang lại tự do, ấm no, hạnh phúc cho nhân dân. Tư tưởng của
Người đã được nhấn mạnh tại Đại hội II của Đảng (1951): Xây dựng một nước Việt
Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ, phú cường. Người nhiều lần nhắc
nhở: “Nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng
chẳng có nghĩa lý gì”12. Người đặc
biệt chú trọng việc nâng cao dân trí, phục vụ công cuộc xây dựng, phát triển đất
nước giàu mạnh. “Nay chúng ta đã giành được quyền độc lập. Một trong những công
việc phải thực hiện cấp tốc trong lúc này là nâng cao dân trí”13. Trước lúc đi xa, trong Di chúc Người
bày tỏ điều mong muốn cuối cùng, cũng là khát vọng tột bậc: “Toàn Đảng, toàn
dân ta đoàn kết phấn đấu, xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc
lập, dân chủ và giàu mạnh, và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế
giới”14.
Hai là, thực hiện khát vọng đất nước giàu mạnh, cường thịnh
trong điều kiện Đảng cầm quyền, xây dựng chế độ mới, mưu cầu hạnh phúc, ấm no
cho nhân dân. Hồ Chí Minh ngay từ khi ra đi tìm đường cứu nước đã mang khát
vọng lớn lao: Độc lập cho Tổ quốc, tự do, hạnh phúc cho đồng bào. Người khẳng
định: “Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta
được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn
áo mặc, ai cũng được học hành”15. Cả
cuộc đời hoạt động của Chủ tịch Hồ Chí Minh hiến dâng trọn vẹn cho cách mạng,
chỉ có một mục đích, là phấn đấu cho quyền lợi Tổ quốc, và hạnh phúc của quốc
dân.
Ba là, xây dựng nền tảng kinh tế vững chắc, thực hiện một cách
có kế hoạch với sự đồng lòng của Chính phủ và người dân.
Hiện thực khát vọng đất nước phồn vinh, hạnh phúc theo tư tưởng
Hồ Chí Minh là phải xây dựng chế độ chính trị dân chủ, tiến bộ, thật sự vì dân,
xây dựng đời sống kinh tế, văn hóa - xã hội văn minh, tiến bộ với những giá trị
đạo đức tốt đẹp. Muốn vậy, phải xây dựng nền tảng kinh tế vững chắc, có kế
hoạch thực hiện với sự đồng lòng của Chính phủ và người dân.
Ngay trong phiên họp đầu tiên của Ủy ban ngày 10/01/1946, Hồ Chí
Minh phát biểu mong muốn mọi người đem tài năng tri thức lo bồi bổ về mặt kinh
tế và xã hội. Làm cho dân có ăn. Làm cho dân có mặc. Làm cho dân có chỗ ở. Làm
cho dân có học hành.
Bốn là, phát huy tối đa nội lực dân tộc, tranh thủ ngoại lực, có
chính sách mở cửa, thu hút đầu tư nước ngoài.
Vấn đề nội lực dân tộc là một điểm quan trọng trong tư tưởng Hồ
Chí Minh. Người chỉ rõ “đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”. Hồ Chí Minh cho
rằng, việc mở cửa, hợp tác quốc tế không chỉ nhằm mục đích nhận được sự giúp đỡ
của bạn bè quốc tế, mà thông qua đó thu hút ngoại lực, thu hút đầu tư, tạo ra
những điều kiện phát huy tiềm năng của đất nước, phát triển kinh tế, nâng cao
đời sống của nhân dân.
Năm là, luôn xuất phát từ hoàn cảnh cụ thể của đất nước, vận
dụng sáng tạo lý luận vào thực tiễn để đưa ra những quan điểm, chủ trương phù
hợp; không giáo điều, máy móc trong học tập kinh nghiệm của nước khác.
Theo Hồ Chí Minh, xây dựng, phát triển đất nước theo con đường
xã hội chủ nghĩa đòi hỏi Việt Nam phải có cách làm, bước đi và biện pháp thích
hợp. “Ta không thể giống Liên Xô, vì Liên Xô có phong tục tập quán khác, có
lịch sử địa lý khác... ta có thể đi con đường khác để tiến lên chủ nghĩa xã hội”16. Chúng ta dùng lập trường, quan điểm,
phương pháp chủ nghĩa Mác - Lênin mà tổng kết những kinh nghiệm của Đảng ta,
phân tích một cách đúng đắn những đặc điểm của nước ta. Có như thế, chúng ta
mới có thể dần dần hiểu được quy luật phát triển của cách mạng Việt Nam, định
ra được những đường lối, phương châm, bước đi cụ thể của cách mạng xã hội chủ
nghĩa thích hợp với tình hình nước ta17.
HỌC VÀ LÀM THEO BÁC, XÂY DỰNG ĐẤT NƯỚC
PHỒN VINH, HẠNH PHÚC
Thực tiễn cách mạng nước ta từ khi có Đảng, nhất là thực tiễn 35
năm đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng đã thể hiện một cách sinh động ý chí,
khát vọng phát triển của dân tộc ta. Đại hội XIII của Đảng đã xác định các quan
điểm chỉ đạo công cuộc đổi mới hiện nay, trong đó nhấn mạnh: “Khơi dậy mạnh mẽ
tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc
và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc; phát huy dân chủ xã hội
chủ nghĩa, sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và của nền văn hoá, con
người Việt Nam, bồi dưỡng sức dân, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực... thúc
đẩy đổi mới sáng tạo, tạo động lực mới cho phát triển nhanh và bền vững đất
nước”18.
Trên tinh thần đó, tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tư
tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, nâng cao tinh thần yêu nước, ý chí tự
lực, tự cường dân tộc, khát vọng cống hiến, phát triển đất nước phồn vinh, hạnh
phúc của các cấp ủy, tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên và người dân, góp phần
thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng và nhiệm vụ cách mạng
trong các giai đoạn lịch sử.
Để việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí
Minh trong thời gian tới đi vào chiều sâu, chất lượng, thiết thực, cần tập
trung làm tốt ba nội dung: Học tập, làm theo Bác và nêu gương của cán bộ, đảng
viên, cần thực hiện đồng bộ 8 giải pháp chủ yếu sau:
Một là, cần nhận thức sâu sắc, thấm nhuần tư tưởng, đạo đức,
phong cách Hồ Chí Minh. Coi đây là công việc thường xuyên, không thể thiếu đối
với mỗi cán bộ, đảng viên. Nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên về nội
dung, giá trị và ý nghĩa to lớn của tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh.
Tư tưởng Hồ Chí Minh cùng với chủ nghĩa Mác - Lênin là nền tảng tư tưởng, kim
chỉ nam cho hành động của Đảng. Học tập và làm theo Bác để Đảng ta và mỗi đảng
viên xứng đáng với vai trò, sứ mệnh lãnh đạo cách mạng Việt Nam và sự tin cậy
của nhân dân.
Hai là, các cấp ủy đảng, chính quyền, đoàn thể đưa nội dung làm
theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh vào chương trình, kế hoạch hành
động thực hiện nghị quyết của đảng bộ cấp mình, gắn với nhiệm vụ chính trị .
Kết hợp chặt chẽ giữa học tập với làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí
Minh trong thực hiện nhiệm vụ chính trị của mỗi địa phương, đơn vị và công tác
xây dựng, chỉnh đốn Đảng; giải quyết hiệu quả các khâu đột phá và các vấn đề
trọng tâm, bức xúc trong thực tiễn.
Ba là, đẩy mạnh tuyên truyền, vận động quần chúng nhân dân tham
gia các phong trào thi đua yêu nước, lôi cuốn sự vào cuộc của toàn xã hội. Đẩy
mạnh tuyên truyền, gắn việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách
Hồ Chí Minh với các cuộc vận động, phong trào thi đua yêu nước của các cấp, các
ngành, nhằm lan tỏa, khơi dậy tinh thần cống hiến, khát vọng phát triển đất
nước phồn vinh, hạnh phúc, ý chí tự cường và phát huy sức mạnh đại đoàn kết
toàn dân tộc để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Mỗi cán bộ, đảng viên nhận thức sâu
sắc và tự giác thực hiện bổn phận, trách nhiệm của bản thân, gắn bó chặt chẽ,
liên hệ mật thiết với nhân dân, “trọng dân, gần dân, tin dân, hiểu dân, học
dân, dựa vào dân và có trách nhiệm với dân”, thực hiện có hiệu quả phương châm
“Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”, làm
cho tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh thật sự trở thành nền tảng tinh
thần vững chắc của đời sống xã hội. Nghiên cứu tổ chức cuộc vận động “Toàn
Đảng, toàn dân khơi dậy khát vọng phát triển đất nước”, với quyết tâm “sánh vai
với các cường quốc” như tâm nguyện của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Bốn là, nêu cao trách nhiệm nêu gương trong học tập và làm theo
tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh về ý chí, tự lực, tự cường dân tộc,
khát vọng phát triển đất nước phồn vinh trong cán bộ, đảng viên, nhất là người
đứng đầu. Đề cao việc phát huy vai trò, trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng
viên, nhất là người đứng đầu, trước hết là các đồng chí Ủy viên Bộ Chính trị,
Ủy viên Ban Bí thư, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng theo phương châm cán
bộ có chức vụ càng cao càng phải gương mẫu, khẳng định vai trò lãnh đạo, tính
tiên phong, gương mẫu “trên trước, dưới sau”, “đảng viên đi trước, làng nước
theo sau”. Mỗi cán bộ, đảng viên cần phát huy vai trò nêu gương trong xây dựng
ý chí, khát vọng phát triển của bản thân và của cơ quan, đơn vị. Mỗi cán bộ,
đảng viên tự nêu gương sáng, hàng triệu đảng viên là những tấm gương sáng, toàn
Đảng ta sẽ thực sự trong sạch, vững mạnh, gắn bó máu thịt với nhân dân. Đây là
điều kiện tiên quyết để khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh
phúc trong Đảng và xã hội.
Năm là, nghiên cứu bổ sung, hoàn thiện các chuẩn mực đạo đức
cách mạng phù hợp với điều kiện mới, làm cơ sở cho cán bộ, đảng viên tự giác tu
dưỡng, rèn luyện. Đẩy mạnh giáo dục đạo đức cách mạng, làm cho mỗi cán bộ, đảng
viên thấy rõ bổn phận và trách nhiệm của mình, nêu cao bản lĩnh chính trị, đấu
tranh có hiệu quả với mọi biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân, bệnh quan liêu, cơ
hội, cục bộ, bè phái, “lợi ích nhóm”, mất đoàn kết nội bộ, chống suy thoái về
tư tưởng chính trị, nâng cao ý thức tu dưỡng, “nói đi đôi với làm”, “rèn luyện
suốt đời”, thường xuyên “tự soi”, “tự sửa”.
Sáu là, tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả việc
nghiên cứu, vận dụng và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới,
theo hướng khoa học, sáng tạo, hiện đại và gắn lý luận với thực tiễn, phù hợp
với từng đối tượng. Tập trung nghiên cứu, xác định và triển khai xây dựng hệ
giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hóa và chuẩn mực con người gắn với giữ gìn,
phát triển hệ giá trị gia đình Việt Nam trong thời kỳ mới.
Bảy là, nâng cao tính khoa học, tính chiến đấu trong đấu tranh
phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, cơ hội chính trị. Chủ động thông tin
kịp thời, chính xác, khách quan, đúng định hướng chính trị để cán bộ, đảng viên
và nhân dân tích cực đấu tranh phòng, chống “diễn biến hòa bình”, bảo vệ nền
tảng tư tưởng của Đảng.
Tám là, coi trọng công tác kiểm tra, giám sát. Tăng cường công
tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện Kết luận số 01-KL/TW ngày 18/5/2021 của
Bộ Chính trị về “Tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW về đẩy mạnh học tập và
làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” gắn với thực hiện Nghị
quyết Trung ương 4 khóa XI, XII về xây dựng, chỉnh đốn Đảng, vi phạm kỷ luật
Đảng, pháp luật của Nhà nước, bảo đảm cho việc học tập và làm theo tư tưởng,
đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh được thực hiện nghiêm túc, hiệu quả thực chất.
Phát huy vai trò giám sát của các cơ quan dân cử, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức
chính trị - xã hội, báo chí và nhân dân đối với cán bộ, đảng viên trong thực
hiện nêu gương./.
PGS,
TS. Nguyễn Viết Thông
Tổng
Thư ký Hội đồng Lý luận Trung ương
Theo Tạp chí Tuyên giáo điện tử
Đàm Anh (st)
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. CTQG, H, 2011, t.1, tr. 209.
2, 3, 4. Hồ Chí Minh: Sđd, t.2, tr. 283,
320, 289.
5, 8. Hồ Chí Minh: Sđd, t. 3, tr.1, 596.
6, 16. Hồ Chí Minh: Sđd, t.10, tr.453, 391.
7. Hồ Chí Minh: Sđd, t.12, tr. 492.
9, 11, 12, 13, 15. Hồ Chí Minh: Sđd, t.4,
tr. 534, 534, 64, 40, 187.
10, 14. Hồ Chí Minh: Sđd, t.15, tr.131,
624.
17. Hồ Chí Minh: Sđd, t.11, tr.92.
18. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H, 2021,
t.1, tr.110.
- Báo chí - “Vũ khí” tư tưởng sắc bén của các nhà cách mạng
- Tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn mới
- Hồ Chí Minh - Hiện thân của đổi mới; tư tưởng, đạo đức, phong cách của Người soi sáng sự nghiệp đổi mới của Đảng và nhân dân ta
Đang truy cập: 664
Hôm nay: 27
Tổng lượt truy cập: 613,741