Cách đây 110 năm (1911 - 2021), người
thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành ra nước ngoài để thực hiện khát vọng đem
lại quyền tự do cho đồng bào, cho dân tộc thoát khỏi ách nô lệ của chủ nghĩa
thực dân. Người là tấm gương mẫu mực của sự kết hợp giữa chủ nghĩa yêu nước
chân chính với chủ nghĩa cộng sản, sự gắn kết giữa lực lượng cách mạng trong
nước với quốc tế, giữa phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc với phong trào
cộng sản và công nhân quốc tế. Sự nỗ lực cống hiến của Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí
Minh cho cách mạng thế giới trong những năm tìm đường cứu nước có tầm ảnh hưởng
to lớn đến cuộc đấu tranh chung của nhân loại tiến bộ vì nền độc lập, tự do của
con người và các dân tộc thuộc địa.
Năm 1920, chàng thanh niên yêu nước Nguyễn Ái Quốc (tên của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong thời gian hoạt động cách mạng ở Pháp) tham dự Đại hội lần thứ 18 Đảng Xã hội Pháp ở thành phố Tours với tư cách đại biểu Đông Dương. Nguyễn Ái Quốc trở thành một trong những người sáng lập Đảng Cộng sản Pháp và cũng là người cộng sản đầu tiên của dân tộc Việt Nam. Ảnh: TTXVN
Những cống hiến vĩ đại cho quốc tế
Vào cuối thế kỷ XIX, chủ nghĩa tư bản thế giới chuyển sang
giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, bộc lộ bản chất hiếu chiến, xâm lược thuộc địa và
áp đặt ách thống trị thực dân ở khắp các nước Á, Phi, Mỹ Latin. Thế giới bị
chia cắt với một bên là các nước tư bản, có nền công nghiệp phát triển và một
bên là các nước thuộc địa và phụ thuộc, có nền kinh tế lạc hậu. Đến đầu thế kỷ
XX, cuộc xung đột, tranh giành quyền lợi giữa các nước đế quốc đã dẫn đến Chiến
tranh thế giới thứ nhất (1914 - 1918), khiến các mâu thuẫn vốn có của chủ nghĩa
đế quốc trở nên gay gắt. Cùng với phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân ở
các nước đế quốc, phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa
và phụ thuộc bùng lên mạnh mẽ, điển hình là Trung Quốc, Ấn Độ, Iran, Thổ Nhĩ
Kỳ, Afganistan, Indonesia… và cách mạng phương Đông “thức tỉnh”. Vấn đề đặt ra
cho các nước thuộc địa và phụ thuộc là cần phải tập hợp lực lượng, lựa chọn
phương thức tiến hành cách mạng như thế nào để giành quyền độc lập, tự do cho
dân tộc.
Năm 1858, thực dân Pháp xâm lược Việt Nam, chế độ phong kiến mà
đại biểu là triều đình nhà Nguyễn đã cam chịu đầu hàng, làm tay sai và dâng
giang sơn cho đế quốc, thực dân. Với truyền thống yêu nước, ý chí đấu tranh
kiên cường, bất khuất, các cuộc khởi nghĩa của nhân dân ta đã liên tiếp nổ ra
khắp các miền Bắc, Trung, Nam. Tuy nhiên, từ cuối thế kỷ XIX đến những năm đầu
của thế kỷ XX, các phong trào yêu nước chống Pháp ở Việt Nam đều bị thất bại do
sai lầm về đường lối, hạn chế về sức mạnh quân sự và khủng hoảng về con đường
giải phóng dân tộc. Trong bối cảnh đó, người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất
Thành đã nhận thấy con đường do các thế hệ đi trước tiến hành sẽ không lật đổ
được ách thống trị của thực dân, giải phóng được dân tộc, nên đã trăn trở tìm
con đường cách mạng phù hợp với quy luật phát triển của thời đại lúc bấy giờ.
Với hành trang hai bàn tay trắng, Người quyết tâm ra nước ngoài nghiên cứu thực
tiễn cách mạng thế giới, tìm kiếm con đường, phương thức tiến hành cách mạng
phù hợp để trở về nước lãnh đạo nhân dân đánh đuổi đế quốc, thực dân, giành độc
lập, tự do cho dân tộc. Người muốn đi ra nước ngoài xem nước Pháp và các nước
khác tiến hành cách mạng thế nào để trở về nước giúp đồng bào. Người khẳng
định: “Dĩ nhiên là tôi sẽ trở về Tổ quốc tôi để đấu tranh cho sự nghiệp của
chúng tôi. Ở bên chúng tôi có nhiều việc phải làm lắm”1.
Ngày 05-6-1911, trên con tàu Amiral Latouche Tréville, từ cảng Sài Gòn, Nguyễn
Tất Thành bắt đầu cuộc hành trình đến Singapore, Colombo… rồi đến thành phố
Marseille của Pháp vào tháng 7-1911. Từ Marseille, theo một con tàu khác,
Nguyễn Tất Thành đã có một cuộc hành trình rất dài đi vòng quanh châu Phi, đến
những nước đế quốc lớn nhất thời đó là Mỹ, rồi đến nước Anh và đến cuối năm
1917, trở lại về Pháp. Người không có ý định sang Nhật, không tìm đến các nước
châu Á mà nhất quyết sang nước Pháp - nước bản địa đang đô hộ dân tộc mình -
với mong muốn tìm hiểu và hóa giải sự thật về khẩu hiệu “Tự do - Bình đẳng -
Bác ái” của cách mạng Pháp và đến tận châu Âu là cái nôi của các nước tư bản
phát triển.
Trong thời gian ở Pháp, Người đã nhận thấy cần xây dựng, phát
huy sức mạnh của tổ chức, các lực lượng cách mạng quốc tế, gắn kết sự nghiệp
giải phóng dân tộc Việt Nam với sự nghiệp giải phóng chung các dân tộc thuộc
địa và người dân cần lao trên toàn thế giới thì mới giành được thắng lợi… Với
khoảng thời gian 30 năm bôn ba ở nước ngoài (1911 - 1941), trong đó 6 năm ở
Pháp (1917 - 1923), Người mang nhiều tên gọi khác nhau, sống bằng đủ nghề lao
động, hòa mình vào thực tiễn của chế độ tư bản chủ nghĩa để thấu hiểu hơn về
cuộc sống của những người dân lao động. Qua trải nghiệm thực tiễn, Người đã rút
ra kết luận có giá trị lý luận và đánh giá thực chất sự phân hóa, mâu thuẫn vốn
có trong xã hội tư bản. Ở đâu bọn đế quốc, thực dân cũng tàn bạo, độc ác và
những người lao động cũng bị bóc lột, áp bức nặng nề: “Vậy là, dù màu da có
khác nhau, trên đời này chỉ có hai giống người: giống người bóc lột và giống
người bị bóc lột. Mà cũng chỉ có một mối tình hữu ái là thật mà thôi: tình hữu
ái vô sản”2. Đây là nhận định mở ra
định hướng quan trọng: muốn đấu tranh chống lại áp bức, bóc lột của chủ nghĩa
thực dân ở các nước thuộc địa thì phải tổ chức, tập hợp, đoàn kết nhân dân ở
mỗi nước với lực lượng cách mạng ở chính quốc và quốc tế thì mới tạo ra sức
mạnh chống lại kẻ thù.
Với tư duy biện chứng và tầm nhìn rộng lớn nên khi trở lại Thủ
đô Paris (Pháp) vào năm 1917, Người tích cực tham gia hoạt động ở các tổ chức
như Đảng Xã hội Pháp, Hội những người Việt kiều yêu nước tại Pháp để lên án,
vạch trần bản chất của đế quốc xâm lược, chỉ ra nỗi khổ cực của người dân nô lệ
và tập hợp lực lượng cách mạng quốc tế… Ngày 18-6-1919, nhân danh là người Việt
Nam yêu nước đưa ra yêu sách của nhân dân An Nam cho Hội nghị Hòa bình, đòi
Chính phủ Pháp thực hiện các quyền tự do, dân chủ, bình đẳng của dân tộc mình,
Người sử dụng tên gọi Nguyễn Ái Quốc. Ngày 25 đến ngày 30-12-1920, Người tham
gia Đại hội lần thứ 18 của Đảng Xã hội Pháp ở thành phố Tours với tư cách là
đại biểu duy nhất của Đông Dương, trở thành một trong những người sáng lập Đảng
Cộng sản Pháp - một sự kiện chính trị, bước ngoặt vô cùng quan trọng trong cuộc
đời hoạt động cách mạng của Nguyễn Ái Quốc và con đường cách mạng Việt Nam.
Trong bài phát biểu tại Đại hội, Người khéo léo lồng ghép nội dung kịch liệt tố
cáo bọn đế quốc đã gây ra những tội ác tày trời đối với nhân dân Đông Dương,
nêu rõ trách nhiệm của giai cấp công nhân Pháp đối với vận mệnh của các dân tộc
thuộc địa.
Gia nhập Đảng Xã hội Pháp là cơ hội để Nguyễn Ái Quốc được tiếp
xúc với những nhà hoạt động nổi tiếng của Đảng Xã hội, có tầm ảnh hưởng to lớn
nên đã để lại dấu ấn sâu sắc, thấm đượm tình đoàn kết chiến đấu giữa nhân dân
các nước thuộc địa với nhân dân ở các nước đế quốc và là bước tiến quan trọng
để thực hiện hoài bão mà Người đã lựa chọn. Ngày 16 và 17-7-1920, Báo Nhân đạo
của Đảng Xã hội Pháp đã đăng “Luận cương của V.I.Lênin về vấn đề dân tộc thuộc
địa”. Đây là cẩm nang về vấn đề dân tộc thuộc địa, đã chỉ ra phương hướng, con
đường giải phóng dân tộc, đó là chỉ có gắn với cách mạng vô sản và xây dựng chế
độ xã hội chủ nghĩa thì mới giải phóng được giai cấp, nhân dân lao động và đem
lại nền độc lập dân tộc thực sự. Sau này, nhớ lại cảm xúc khi đọc bản Luận
cương của V.I.Lênin, Người viết: “Luận cương của Lênin làm cho tôi rất cảm
động, phấn khởi, sáng tỏ, tin tưởng biết bao! Tôi vui mừng đến phát khóc lên.
Ngồi một mình trong buồng mà tôi nói to lên như đang nói trước quần chúng đông
đảo: “Hỡi đồng bào bị đọa đày đau khổ! Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây
là con đường giải phóng chúng ta!””3.
Với nhãn quan chính trị nhạy bén và khả năng thuyết phục mạnh
mẽ, năm 1921 tại Paris, Nguyễn Ái Quốc đã cùng một số nhà cách mạng châu
Phi, Mỹ Latinh thành lập Hội Liên hiệp thuộc địa với tuyên ngôn “Đoàn kết, tổ
chức nhân dân các nước thuộc địa đứng lên đấu tranh tự giải phóng”. Do sớm nhận
rõ vai trò của báo chí nên ngày 19-01-1922, Nguyễn Ái Quốc cùng với Ban Thường
vụ Hội Liên hiệp thuộc địa đã họp, quyết định thành lập cơ quan ngôn luận của
Hội, lấy tên tờ báo là “Người cùng khổ” (Le Paria). Mặc dù trong điều kiện tài
chính khó khăn, chính quyền Pháp ngăn cản, nhưng Nguyễn Ái Quốc đã có nhiều
hoạt động sáng tạo để bảo đảm kinh phí và duy trì hoạt động của tờ báo. Với
khoảng thời gian từ tháng 4-1922 đến tháng 6-1926, tờ báo “Người cùng khổ” phát
hành được 38 số. Giá trị, tầm ảnh hưởng quốc tế to lớn của tờ báo “Người cùng
khổ” gắn với tên tuổi và thể hiện trí tuệ, tài năng, nhạy bén chính trị, năng
lực tổ chức của Nguyễn Ái Quốc. Sự ra đời của tờ báo đã làm tăng thêm sức mạnh
chiến đấu, là diễn đàn để Người và Hội Liên hiệp thuộc địa tuyên truyền, tập
hợp nhân dân thuộc địa chĩa mũi nhọn, vạch trần và đấu tranh chống chủ nghĩa
thực dân, đoàn kết lực lượng cách mạng để giải phóng các dân tộc thuộc địa.
Ở Đông Dương, bọn thực dân đưa ra quy định ai đọc tờ báo “Người cùng
khổ” đều bị bắt. Có thể khẳng định rằng, thời gian hoạt động ở Pháp là dấu mốc
quan trọng của Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh, để lại hình ảnh đẹp về một người
chiến sĩ cộng sản quốc tế nhiệt thành đấu tranh vì sự nghiệp giải phóng dân
tộc, giải phóng con người; đồng thời, đã lựa chọn con đường cách mạng giải
phóng dân tộc đúng đắn theo con đường cách mạng vô sản mà Cách mạng Tháng Mười
Nga năm 1917 đã mở ra. Uy tín, tầm ảnh hưởng của Nguyễn Ái Quốc đối với quốc tế
trong thời kỳ hoạt động ở Pháp ngày càng lớn, gây được sự chú ý của một nhà
lãnh đạo của Quốc tế Cộng sản tên là D.Manulisky. Ông đã tin tưởng giới thiệu
và muốn đào tạo Người trở thành lãnh tụ cho cách mạng Đông Dương. Vì thế, Quốc
tế Cộng sản cùng với Đảng Cộng sản Pháp tổ chức cho Nguyễn Ái Quốc đến nước
Nga. Tháng 6-1923, Nguyễn Ái Quốc với tư cách là nhà cách mạng châu Á đã đến
Liên Xô dự Đại hội lần thứ nhất Quốc tế Nông dân.
Ngày 30-6-1923, Người đến Liên Xô và bắt đầu một thời kỳ hoạt
động, học tập và nghiên cứu về chủ nghĩa Mác - Lênin, về kinh nghiệm của Cách
mạng Tháng Mười Nga năm 1917. Đến quê hương của Cách mạng Tháng Mười Nga, của
V.I.Lênin, là cơ hội để Người hoàn thiện các luận điểm quan trọng về con đường
giải phóng dân tộc Việt Nam và trở thành lãnh tụ có ảnh hưởng lớn trong Quốc tế
Cộng sản. Nguyễn Ái Quốc đã dự Đại hội lần thứ nhất Quốc tế Nông dân, khai mạc
ngày 10-10-1923 và đã có bài phát biểu quan trọng. Với uy tín cao nên Người
được bầu và trở thành một trong số 11 ủy viên của Đoàn Chủ tịch Quốc tế Nông
dân. Nguyễn Ái Quốc đã gia nhập nhanh chóng môi trường hoạt động mới, tham dự
một số đại hội là những sự kiện chính trị có tầm ảnh hưởng lớn, như: Đại hội
lần thứ V của Quốc tế Cộng sản và Đại hội lần thứ IV Quốc tế Cộng sản Thanh
niên diễn ra vào tháng 6-1924; Đại hội lần thứ nhất Quốc tế cứu tế Đỏ vào tháng
7-1924; dự mít tinh kỷ niệm Ngày Quốc tế lao động 1-5 và dự mít tinh vì hòa
bình thế giới ngày 06-7-1924 tại Quảng trường Đỏ. Tại Đại hội lần thứ V, Người
được cử làm cán bộ Ban phương Đông của Quốc tế Cộng sản, được giao nhiệm vụ
theo dõi và chỉ đạo phong trào cách mạng ở một số nước châu Á…
Đồng chí Nguyễn Ái Quốc với một số đại biểu dự Đại hội lần thứ V Quốc tế Cộng sản tại Nga, năm 1924. Ảnh: TTXVN
Khoảng thời gian 14 tháng hoạt động ở
Liên Xô tuy không nhiều (từ tháng 6-1923 đến tháng 11-1924) nhưng là bước ngoặt
quan trọng của Nguyễn Ái Quốc trong hành trình tìm đường cứu nước và có những
cống hiến to lớn đối với Quốc tế Cộng sản. Người đã gây dựng mối quan hệ với
những người cộng sản thế giới, thông qua hoạt động trong tổ chức Quốc tế Cộng
sản và khi tham gia khóa học tại trường Đại học Cộng sản của những người lao
động phương Đông (gọi tắt là Trường Đại học Phương Đông). Người có nhiều bài
viết trên các báo, tạp chí, tranh thủ cơ hội tối đa trên các diễn đàn để gây sự
chú ý và kêu gọi những người cộng sản ở nước chính quốc ủng hộ phong trào giải
phóng của các nước thuộc địa.
Thời kỳ hoạt động ở Trung Quốc, Nguyễn Ái Quốc vẫn giữ mối liên
hệ với Quốc tế Cộng sản, gặp gỡ các nhà lão thành cách mạng Việt Nam, tham gia
thành lập Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức Á Đông, sáng lập tổ chức Việt Nam
Thanh niên Cách mạng đồng chí Hội và cử hội viên về nước vận động và đưa thanh
niên sang Quảng Châu đào tạo. Kết quả là đến năm 1927, Người đã mở được ba khóa
với 10 lớp, huấn luyện 75 hội viên làm lực lượng cốt cán cho việc thành lập
Đảng Cộng sản Đông Dương. Người lập ra Báo Thanh niên làm cơ quan phát
ngôn để truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào trong nước. Người trực tiếp giảng
bài để truyền đạt cho các thanh niên, những trí thức về chủ nghĩa Mác - Lênin,
thực tiễn của Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917, vận dụng làm rõ con đường cách
mạng của phương Đông vào điều kiện cụ thể của Việt Nam. Bài giảng của Người đã
được Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức ở Á Đông tập hợp thành cuốn sách
“Đường Kách mệnh”, xuất bản năm 1927 và trở thành cẩm nang cho những người cộng
sản, chỉ dẫn những kiến thức cơ bản về cách mạng, về yêu cầu bồi dưỡng đội ngũ
cán bộ làm nòng cốt để tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc…
Khắc ghi bước ngoặt lịch sử cho cách
mạng Việt Nam
Đất nước phát triển mạnh mẽ sau 35 năm đổi mới (Trong ảnh: Bến Nhà Rồng, Thành phố Hồ Chí Minh hôm nay - từ đây năm xưa Người đã ra đi tìm đường cứu nước). Ảnh: Zing.vn
Những năm tháng bôn ba tìm đường cứu
nước của Nguyễn Ái Quốc là khoảng thời gian có nhiều cống hiến quan trọng, có
giá trị tạo ra bước ngoặt cho cách mạng Việt Nam, sự nghiệp giải phóng của các
dân tộc thuộc địa và cho sự nghiệp cách mạng chung của thế giới. Người luôn
trung thành, vận dụng sáng tạo lý luận, nguyên lý, quy luật cách mạng chung,
trong đó có quy luật thành lập đảng cộng sản của chủ nghĩa Mác - Lênin, vào
việc xây dựng, thành lập chính đảng đặc thù ở một nước thuộc địa, nửa phong
kiến là Đảng Cộng sản Đông Dương. Ngoài việc sáng lập, rèn luyện Đảng ta, trong
những chặng đường tiếp theo, Người luôn giải quyết tốt các mối quan hệ chính
trị, như: Giữa sự chỉ đạo của Quốc tế Cộng sản với việc lựa chọn con đường, mục
tiêu, nhiệm vụ, lực lượng và phương thức tiến hành cách mạng ở Việt Nam; giữa
sự nghiệp cách mạng chung của thế giới với sự nghiệp cách mạng riêng của Việt
Nam…
Trong suốt chặng đường cứu nước của Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí
Minh, Người đã lựa chọn đúng con đường cứu nước, tổ chức và cùng với Đảng Cộng
sản Việt Nam lãnh đạo nhân dân ta tiến hành cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945
giành thắng lợi, thành lập Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nhà nước công
nông đầu tiên ở Đông Nam Á, đánh dấu mốc son chói lọi trong lịch sử dân tộc,
độc lập dân tộc đi lên chủ nghĩa xã hội. Thắng lợi vẻ vang đó chứng minh rằng,
một đảng cộng sản còn non trẻ ở một nước thuộc địa, nửa phong kiến, có đường
lối lãnh đạo đúng đắn, có lãnh tụ thiên tài và biết phát huy sức mạnh thời đại
với sức mạnh dân tộc thì tất yếu chiến thắng đế quốc thực dân lớn. Cách mạng
Việt Nam là thắng lợi điển hình trong phong trào đấu tranh giành độc lập dân
tộc, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, đi lên chủ nghĩa xã hội, đó là cơ sở vững
chắc bảo đảm vững chắc nền độc lập, tự do của dân tộc. Sự cống hiến vĩ đại của
Người đối với cách mạng Việt Nam và cách mạng thế giới là giương cao ngọn cờ
đấu tranh giải phóng dân tộc, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, mở
ra một thời đại mới mang tên “Thời đại Hồ Chí Minh”.
Khoảng thời gian ra nước ngoài tìm đường cứu nước của Nguyễn Ái
Quốc - Hồ Chí Minh là mốc son chói lọi, mang tính bước ngoặt trong sự nghiệp
cách mạng của Người, của dân tộc Việt Nam và của nhân loại tiến bộ. Thời gian
càng lùi xa, càng cho chúng ta thấy sự vĩ đại của người chiến sĩ cộng sản kiên
cường, kiên định với mục tiêu đã lựa chọn, cả cuộc đời phấn đấu hy sinh vì độc
lập, tự do của dân tộc, hạnh phúc của nhân dân. Những cống hiến vĩ đại của
Người đối với cách mạng Việt Nam và quốc tế trong thời kỳ bôn ba ra nước ngoài,
mà đặc biệt là thời gian ở Pháp, Liên Xô, Trung Quốc, là những trang sử hào
hùng, để lại nhiều bài học kinh nghiệm cho cách mạng Việt Nam, cũng như cách
mạng thế giới. Nhân loại tiến bộ mãi ghi nhớ sự cống hiến vĩ đại của Nguyễn Ái
Quốc - Hồ Chí Minh đối với phong trào cộng sản và công nhân quốc tế và phong
trào giải phóng dân tộc, như nhà báo, nhà văn Cuba Luis Francisco Báez
Hernández (1936 - 2015) đã từng viết: “Hồ Chí Minh là một trong những nhân vật
phi thường của thời đại”./.
Đại
tá, PGS, TS. Lưu Ngọc Khải
Viện
Khoa học xã hội và nhân văn quân sự, Bộ Quốc phòng
Theo Tạp chí Cộng sản điện tử
Tâm Trang (st)
---------------------------------
1, 2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính
trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t. 1, tr. 467, 287
3. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 12, tr. 562
Đang truy cập: 439
Hôm nay: 2,034
Tổng lượt truy cập: 1,132,408