Trong phần “Bộc
bạch đôi lời” tại cuốn “Pháp quyền nhân nghĩa Hồ Chí Minh”, cụ Vũ Đình Hòe
(Bộ trưởng Bộ Tư pháp giai đoạn 1946 - 1960) đã nhận định, Chủ tịch Hồ Chí
Minh “có một tư duy pháp lý nhạy bén tuyệt vời, gần như thiên bẩm, hiểu thấu và
thi hành một cách sáng tạo lý luận và thực tiễn chế độ Nhà nước - Pháp quyền của
thời đại và của thế giới văn minh”1.
Nhận định đó đã khẳng định giá trị của tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước, pháp
luật và tư tưởng đó của Người là chỉ dẫn quan trọng để chúng ta xây dựng và
hoàn thiện hệ thống pháp luật ở nước ta trong 75 năm qua.

Chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh công bố Hiến pháp năm 1959_Ảnh: TTXVN
Trong cuộc đời hoạt động cách mạng của
mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh không để lại những trước tác lý luận bàn riêng chủ
đề về hệ thống pháp luật. Tuy nhiên, Người để lại di sản tư tưởng rất sâu sắc
và đặc biệt có giá trị đối với những người làm công tác xây dựng, thực thi pháp
luật, thể hiện trong nhiều bài nói, bài viết và trong hành động thực tiễn cách
mạng trực tiếp lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng hệ thống pháp luật Việt Nam, đặc biệt
là Hiến pháp năm 1946 và Hiến pháp năm 1959, trong 24 năm chỉ đạo xây dựng nhà
nước kiểu mới - Nhà nước của nhân dân lao động, Nhà nước của giai cấp cần lao
chính thức được thiết lập ở nước ta kể từ ngày Quốc khánh 2-9-1945.
Nghiên cứu những tác phẩm của Chủ tịch Hồ Chí Minh
cùng quá trình chỉ đạo cách mạng, xây dựng bộ máy nhà nước, xây
dựng hệ thống pháp luật, có thể thấy rõ những tư tưởng lớn của
Người về tầm nhìn, nội dung, yêu cầu và cả cách tư duy trong thiết
kế và thực thi pháp luật:
Thứ nhất, hệ thống pháp luật Việt
Nam cần xây dựng là hệ thống pháp luật chứa đựng những giá trị công
bằng, nhân văn, chính nghĩa, vì nhân dân lao động và vì con người.
Trong cuộc đời hoạt động cách mạng cứu nước, cứu dân
của mình, sống, nghiên cứu và trải nghiệm ở hơn 30 quốc gia, khắp năm
châu, với bao khó khăn, gian khổ, bằng nhãn quan chính trị và trí tuệ
thiên tài, hiểu sâu sắc bản chất vô nhân đạo và phi nghĩa của chế độ
thực dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh, với lòng yêu nước thương dân vô hạn,
mong muốn xây dựng hệ thống pháp luật vì nhân dân lao động, vì con
người sau khi đã giành được chính quyền.
Trong Tuyên ngôn Độc lập ngày 2-9-1945 chính thức khai sinh
chế độ mới, khai sinh nhà nước kiểu mới ở Việt Nam, Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã trích dẫn những bản tuyên ngôn bất hủ trên thế giới để
khẳng định “những lẽ phải không ai chối cãi được”, mang giá trị “nhân
đạo và chính nghĩa”; phê phán chế độ thực dân, phong kiến có thứ
“luật pháp dã man”. Ngay trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ lâm
thời ngày 03-9-1945, Người chỉ rõ: “Chúng ta phải có một Hiến pháp
dân chủ”2. Trong thực tế, chính
Người đã chỉ đạo soạn thảo Hiến pháp năm 1946 và Hiến pháp năm 1959 với những
nội dung thể hiện đậm nét tính dân chủ, vì con người.
Hệ thống pháp luật mà Chủ tịch Hồ Chí Minh mong muốn
xây dựng là sản phẩm của chế độ có một “mục đích duy nhất là mưu
tự do hạnh phúc cho mọi người… đặt quyền lợi dân lên trên hết thảy”3. Trong bài phát biểu chỉ đạo tại
Hội nghị Tư pháp toàn quốc năm 1950, Người chỉ rõ: “Pháp luật của ta
hiện nay bảo vệ quyền lợi cho hàng triệu người lao động… Pháp luật
của ta là pháp luật thật sự dân chủ, vì nó bảo vệ quyền tự do, dân
chủ rộng rãi cho nhân dân lao động”4.
Thứ hai, hệ thống pháp luật Việt
Nam cần xây dựng là hệ thống pháp luật dựa trên nền tảng Hiến pháp
dân chủ và các đạo luật.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ý thức rất sớm tầm quan trọng của Hiến
pháp và các đạo luật trong quản lý nhà nước và xã hội. Ngay từ năm 1919,
trong bản “Yêu sách của nhân dân An Nam” gửi tới Hội nghị Versaile, Nguyễn Ái
Quốc đã yêu cầu phải “thay thế chế độ ra sắc lệnh bằng chế độ ra các đạo luật”.
Bản yêu sách ngắn gọn, súc tích đã tập trung vào các nội dung đòi tự do, dân
chủ cho nhân dân các nước thuộc địa, thể hiện rõ ý thức đề cao, khẳng định vị
trí, tầm quan trọng của các đạo luật trong đời sống của một dân tộc, một xã hội5. Năm 1922, Nguyễn Ái Quốc đã truyền bá
rộng rãi trong kiều bào và chuyển về nước bản “Việt Nam yêu cầu ca”, chuyển thể
nội dung bản yêu sách thành những vần ca dao dễ đọc, dễ nhớ và yêu sách thứ 7
đã chuyển thành 2 câu thơ lục bát: “Bảy xin Hiến pháp ban hành. Trăm đều phải
có thần linh pháp quyền”. Như vậy, ngay từ năm 1922, Nguyễn Ái Quốc, đã nêu
“ban hành Hiến pháp” phải trở thành một yêu cầu, một đòi hỏi, một yêu sách của
cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam. Hơn nữa, Người yêu
cầu pháp quyền đối với “trăm đều” - tức là mọi thứ, là toàn xã hội6. Khi đã giành được chính quyền, Chủ
tịch Hồ Chí Minh khẳng định, Việt Nam “phải có một hiến pháp dân chủ” để
nhân dân được quyền tự do, dân chủ. Trong Thể lệ tổng tuyển cử7, tại Điều thứ 2 đã quy định: “Tất cả
những công dân Việt Nam 18 tuổi trở lên không phân biệt nam nữ đều có quyền bầu
cử và ứng cử”.
Trong thực tiễn, dưới sự lãnh đạo của Người, sau một
thời gian soạn thảo và xin ý kiến nhân dân, ngày 09-11-1946, Quốc hội
đã thông qua bản Hiến pháp dân chủ đầu tiên trong lịch sử nước nhà.
Bản Hiến pháp trang trọng tuyên bố: “Nước Việt Nam là một nước dân chủ
cộng hoà. Tất cả quyền binh trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam, không
phân biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo” (Điều thứ
nhất), đồng thời “thực hiện chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân”
(Lời nói đầu). Do chiến tranh, việc cụ thể hóa các quy định của Hiến
pháp năm 1946 thành các đạo luật không có điều kiện được thực hiện
đầy đủ, nhưng dựa trên các quy định của Hiến pháp năm 1946, Nhà nước
ta đã ban hành hàng loạt văn bản quy phạm pháp luật quan trọng để tổ
chức các cơ quan trong chính quyền và thực hiện huy động lực lượng
của nhân dân cho sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc, đưa tới sự thắng
lợi của cuộc kháng chiến chống Pháp vào năm 1954. Sau kháng chiến
chống thực dân Pháp thắng lợi, để bảo đảm phù hợp với điều kiện
chính trị, lịch sử cụ thể của thời gian đó, dưới sự chỉ đạo của
Chủ tịch Hồ Chí Minh trong quá trình xây dựng và soạn thảo, Hiến
pháp năm 1959 đã được Quốc hội ban hành. Trên cơ sở đó, Quốc hội
cũng ban hành một số đạo luật quan trọng, tạo cơ sở pháp lý để
chính quyền các cấp tổ chức bộ máy và tổ chức đời sống của nhân
dân, xây dựng miền Bắc vững mạnh và làm cơ sở cho cuộc đấu tranh giành lại hòa
bình, thống nhất đất nước ở miền Nam.

Kỳ họp thứ nhất, Quốc hội khóa I - Quốc hội đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa sau Tổng tuyển cử ngày 06-01-1946, tại Nhà hát lớn Hà Nội. Nguồn: hochiminh.vn
Thứ ba, pháp luật là công cụ cần
thiết “giữ gìn quyền lợi của nhân dân”8 và
duy trì trật tự xã hội.
Trong tư tưởng của Người, một xã hội không thể thiếu pháp luật.
Ngay sau khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, trước khi có Hiến pháp, Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 47/SL, ngày 10-10-1945, giữ lại mọi luật
lệ của chế độ cũ chỉ trừ những điều luật trái với nền độc lập, tự do9. Trong điều kiện chưa thể ban hành ngay
hệ thống pháp luật, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho ban hành hàng loạt các sắc lệnh để
đưa vào thi hành các quyền tự do, dân chủ của công dân, như: Ngày 06-9-1945,
Sắc lệnh số 11 bãi bỏ thuế thân và cam kết các sắc thuế muốn được ấn định thì
phải có sắc lệnh quy định; ngày 08-9-1945, ban hành Sắc lệnh về việc lập ra
bình dân học vụ để thực hiện chủ trương diệt giặc dốt và Sắc lệnh số 14 mở ra
cuộc tổng tuyển cử để bầu Quốc dân đại hội…
Như vậy, trong những giờ phút khẩn trương, bộn bề công việc,
chuẩn bị công cuộc kháng chiến bảo vệ nền độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn
dồn không ít sự quan tâm cho việc xây dựng pháp luật, ban hành chính sách,
củng cố bộ máy chính quyền.
Sau này, khi hòa bình lập lại ở miền Bắc sau năm 1954,
hoạt động xây dựng pháp luật ở nước ta đã được coi trọng hơn. Quốc hội đã ban
hành nhiều đạo luật quan trọng liên quan trực tiếp đền quyền tự do của người
dân, như: Luật quy định quyền lập hội ngày 20-5-1957, Luật quy định quyền tự do
hội họp ngày 20-5-1957, Luật bảo đảm quyền tự do thân thể và quyền bất khả xâm
phạm đối với nhà ở, đồ vật, thư tín của nhân dân ngày 20-5-1957, Sắc luật về
quyền tự do xuất bản ngày 18-6-1957, Luật Công đoàn ngày 5-11-195710…
Thứ tư, hệ thống pháp luật về tổ
chức bộ máy nhà nước và đội ngũ cán bộ cần được đặc biệt coi
trọng để thiết lập và vận hành Nhà nước thực sự của nhân dân, do
nhân dân và vì nhân dân.
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh
rất quan tâm tới việc hoàn thiện pháp luật về tổ chức bộ máy nhà
nước, về quản lý đội ngũ cán bộ và phòng, chống quan liêu, tham
nhũng, lãng phí, bảo đảm bản chất “của nhân dân, do nhân dân và vì
nhân dân” của chính quyền cách mạng. Cụ thể, ngày 22-11-1945, Chủ tịch
Chính phủ lâm thời ban hành Sắc lệnh số 63-SL về tổ chức các hội đồng nhân dân
và ủy ban hành chính (áp dụng cho chính quyền ở nông thôn); ngày
21-12-1945, ban hành Sắc lệnh số 77-SL về tổ chức chính quyền nhân dân ở các
thị xã và thành phố. Đối với hệ thống tòa án nhân dân, ngày 24-01-1946, ban
hành Sắc lệnh số 13-SL tổ chức các tòa án và ngạch thẩm phán… Tiếp đó, Hiến
pháp năm 1946 được ban hành quy định hệ thống tổ chức chính quyền gồm: Nghị
viện nhân dân, Chính phủ, hội đồng nhân dân (ở tỉnh, thành phố, thị xã và xã)
và ủy ban hành chính (ở tất cả các đơn vị hành chính), cơ quan tư pháp (gồm Tòa
án tối cao, tòa án phúc thẩm, các tòa án đệ nhị cấp và sơ cấp). Ngày 22-5-1950,
Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ban hành Sắc lệnh số 85-SL cải cách bộ
máy tư pháp và Luật Tố tụng - có thể coi đây là cuộc cải cách tư pháp đầu tiên
kể từ khi chế độ mới được thiết lập năm 1945, nhằm bảo đảm tốt hơn tính
nhân dân của nền tư pháp mới.
Sau khi hòa bình lập lại ở miền Bắc vào năm 1954 cho
tới năm 1969, Quốc hội đã ban hành Luật Tổ chức chính quyền địa
phương năm 1958, Hiến pháp năm 1959, Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội năm
1959, Luật Tổ chức Quốc hội năm 1960, Luật Tổ chức Hội đồng Chính
phủ năm 1960, Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 1960, Luật Tổ chức
Viện Kiểm sát nhân dân năm 1960, Luật Tổ chức hội đồng nhân dân và ủy
ban hành chính các cấp năm 1962…
Thứ năm, bảo đảm dân chủ trong quá
trình xây dựng pháp luật.
Trong việc xây dựng hệ thống pháp luật, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất
chú trọng tính nhân văn, dân chủ, vì con người. Muốn có được hệ thống
pháp luật như vậy, sự tham gia của nhân dân trong quá trình xây dựng
pháp luật là điều kiện tiên quyết. Một trong sáu nhiệm vụ cấp bách của
Nhà nước ngay sau khi Chính phủ lâm thời được thành lập năm 1945 đó là tổng
tuyển cử và lập hiến11; muốn có Hiến
pháp thì phải tổ chức tổng tuyển cử để nhân dân bầu ra Quốc hội và Quốc hội sẽ
chịu trách nhiệm đại diện cho nhân dân soạn thảo ra Hiến pháp. Quốc hội được
bầu ngày 06-01-1946 chính là Quốc hội lập hiến12.
Như vậy, tư tưởng dân chủ trong lập hiến, lập pháp của Người thể hiện rất rõ ở
việc xác định tham gia xây dựng Hiến pháp, pháp luật là quyền của nhân dân.
Việc xây dựng pháp luật phải xuất phát từ sáng kiến của nhân dân, có sự tham
gia đóng góp ý kiến của các cơ quan đoàn thể và mọi tầng lớp nhân dân. Trong
quá trình xây dựng Hiến pháp năm 1959, việc bảo đảm sự tham gia của đông đảo
các tầng lớp nhân dân vào xây dựng pháp luật đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc
biệt quan tâm. Để bảo đảm pháp luật thực sự của nhân dân, trong quá trình xây
dựng Hiến pháp, Hồ Chí Minh yêu cầu: “Bản Hiến pháp của chúng ta sẽ thảo ra…
phải tiêu biểu được các nguyện vọng của nhân dân… Sau khi thảo xong chúng ta
cần phải trưng cầu ý kiến của nhân dân cả nước một cách thật rộng rãi. Có như
thế bản Hiến pháp của chúng ta mới thật sự là bản Hiến pháp của nhân dân, của
chế độ dân chủ”13.
Như vậy, trong tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, pháp luật sinh
ra không vì cái gì khác hơn là vì dân. Pháp luật dân chủ, tiến bộ là mục tiêu
hướng tới của quá trình xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật. Người nhấn
mạnh, tư tưởng của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân phải được “quán triệt
trong toàn bộ sự nghiệp xây dựng cấu trúc thượng tầng của chế độ và thể chế của
nhà nước ta”14. Người luôn căn dặn:
“Chính phủ và Đảng chỉ mưu giải phóng cho nhân dân, vì thế, bất kỳ việc gì cũng
vì lợi ích của nhân dân mà làm và chịu trách nhiệm trước nhân dân”15, nhất là “sự lãnh đạo trong mọi công
tác thiết thực của Đảng, ắt phải từ trong quần chúng ra, trở lại nơi quần chúng”16.
Thứ sáu, bảo đảm tính khách quan của
pháp luật.
Trong bài viết “Xây dựng những con người của chủ nghĩa xã hội”,
Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Chớ đem chủ quan của mình thay cho điều kiện
thực tế. Phải chống bệnh chủ quan, tác phong quan liêu, đại khái. Phải xây dựng
tác phong điều tra, nghiên cứu trong mọi công tác cũng như trong khi định ra
mọi chính sách của Đảng và của Nhà nước”17.
Điều này có nghĩa rằng, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất coi trọng nguyên tắc
khách quan trong quá trình xây dựng và hoàn thiện pháp luật. Lý do là, pháp
luật là một hiện tượng khách quan, pháp luật sinh ra do nhu cầu của xã hội,
phản ánh trình độ phát triển, thực tiễn cuộc sống. Do vậy, xây dựng và hoàn
thiện pháp luật phải bảo đảm phản ánh được những nhu cầu khách quan về sự cần
thiết phải điều chỉnh bằng pháp luật đối với những quan hệ xã hội nhất định.
Nội dung của pháp luật phải phù hợp với các quy luật khách quan, bảo đảm phát
huy vai trò tích cực của pháp luật đối với đời sống. Để bảo đảm tính khách quan
quá trình xây dựng pháp luật cần coi trọng quá trình nghiên cứu thực tiễn xã
hội, thực tiễn phát triển kinh tế, chính trị, đặc điểm văn hóa, dân cư, nhu cầu
của các đối tượng liên quan… Các thông tin này sẽ là những cơ sở để xây dựng
các quy phạm pháp luật phù hợp.

Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân trao Huân chương Lao động hạng Nhất của Chủ tịch nước tặng Bộ Tư pháp tại Đại hội Thi đua yêu nước ngành tư pháp lần thứ V. Ảnh: TTXVN
Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh và kế
thừa những thành tựu lập pháp của đất nước, kể từ khi thống nhất đất
nước đến nay, Nhà nước ta đã ban hành 3 bản Hiến pháp mới bao gồm: Hiến pháp
năm 1980, Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001) và Hiến pháp năm 2013.
Mỗi bản Hiến pháp ra đời đã đánh dấu một bước phát triển mới của đất nước, là
cơ sở cho việc hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam.
Tính đến nay, Quốc hội đã ban hành 17 bộ luật và 430 luật trên
tất cả các lĩnh vực18, 7.004 nghị
định của Chính phủ19, chưa kể rất
nhiều văn bản khác của các bộ, ngành, chính quyền địa phương. Đặc biệt, trong
gần 35 năm đổi mới, đất nước ta đã có một sự thay đổi mạnh mẽ trong phát triển
kinh tế. Để làm được điều này, bên cạnh quyết tâm chính trị, hệ thống pháp luật
liên tục được quan tâm xây dựng, hoàn thiện dựa trên nền tảng tư tưởng,
giá trị tốt đẹp mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn, tạo cơ sở pháp lý
vững chắc cho tiến trình chuyển đổi kinh tế và quá trình mở cửa,
hội nhập quốc tế của Việt Nam thành công.
Một là, thể chế về Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa được bổ sung, hoàn thiện một bước quan trọng. Kế tục các tư
tưởng tiến bộ của các bản Hiến pháp trước đó (trong đó có Hiến
pháp năm 1946 và Hiến pháp năm 1959), Hiến pháp năm 2013 (Điều 2) trang
trọng quy định: “Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Nhân dân làm chủ;
tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai
cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức” và “Nhà nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân,
do Nhân dân, vì Nhân dân”. Hiến pháp cũng quy định rõ: “Các cơ quan nhà
nước, cán bộ, công chức, viên chức phải tôn trọng Nhân dân, tận tụy phục vụ
Nhân dân, liên hệ chặt chẽ với Nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự giám sát
của Nhân dân; kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí và mọi biểu hiện
quan liêu, hách dịch, cửa quyền” (Điều 8). Hiến pháp năm 2013 quy định
nguyên tắc tổ chức quyền lực nhà nước làm cơ sở cho việc xây dựng các đạo
luật về tổ chức và hoạt động của các thiết chế cơ bản trong bộ
máy nhà nước20 và hệ thống
chính trị, hoàn thiện cơ chế phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ
quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp21,
hành pháp, tư pháp.
Hai là, thể chế về bảo vệ, bảo đảm
quyền con người được quan tâm hoàn thiện. Trên cơ sở nhận thức sâu sắc
về những lẽ phải “không ai chối cãi được” thể hiện trong bản Tuyên
ngôn Độc lập, bằng tư duy lập hiến mới của Hiến pháp năm 2013 coi công
nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân là trách
nhiệm của Nhà nước, các đạo luật về quyền dân sự, chính trị, quyền tự
do, dân chủ của công dân đã được sửa đổi, bổ sung, ban hành mới, đáp
ứng nguyện vọng của nhân dân22.
Hiến pháp năm 2013 đã bổ sung, ghi nhận nhiều quyền mới23 và
quy định rõ ràng, đầy đủ hơn nội hàm của các quyền mà Hiến pháp năm 1992 đã quy
định, đồng thời bổ sung nguyên tắc quyền con người, quyền công dân chỉ có thể
bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc
phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của
cộng đồng (khoản 2 Điều 14). Có thể nói, thể chế bảo đảm cho nhân dân
thực hiện các quyền tự do, dân chủ theo tư tưởng Hồ Chí Minh ở nước
ta hiện nay đã hoàn thiện một cách khá căn bản.
Ba là, thể chế kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa tiếp tục được hoàn thiện với nhiều đặc điểm của
thể chế kinh tế thị trường hiện đại, phù hợp hơn với thông lệ quốc tế. Thể
chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện
nay chính là tiền đề giải phóng sức dân, tiền đề pháp lý bảo đảm
quyền làm chủ của nhân dân trong lĩnh vực kinh tế, phù hợp với tư
tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật. Chế độ sở hữu24, pháp luật về các loại hình doanh
nghiệp thuộc các thành phần kinh tế25 và
thể chế cho việc đổi mới, sắp xếp, cơ cấu lại, nâng cao hiệu quả doanh
nghiệp nhà nước26 đều có
bước phát triển mới. Các quyền và nghĩa vụ về tài sản được thể chế hóa
tương đối đầy đủ. Vị trí, vai trò của kinh tế tư nhân ngày càng được coi
trọng, thu hút vốn đầu tư nước ngoài đạt kết quả tích cực, đội ngũ doanh nhân
không ngừng lớn mạnh. Thể chế về các yếu tố thị trường và các loại thị
trường được hình thành đồng bộ hơn, tạo điều kiện cho việc gắn kết với thị
trường khu vực và thế giới. Môi trường đầu tư, kinh doanh được cải thiện và
thông thoáng hơn; quyền tự do kinh doanh và cạnh tranh bình đẳng giữa các doanh
nghiệp thuộc các thành phần kinh tế được bảo đảm hơn27.
Cải cách thủ tục hành chính trong công tác quy hoạch, quản lý sử dụng đất, cấp
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, thu hồi đất, giải phóng mặt bằng, đấu giá
quyền sử dụng đất đã được đẩy mạnh, đưa quản lý, sử dụng đất đai vào nền nếp28. Pháp luật về giá quy định rõ quyền,
nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân trong lĩnh vực giá và hoạt động quản lý giá, qua
đó bảo đảm sự điều tiết của Nhà nước về giá thông qua các biện pháp kinh tế
nhằm ổn định thị trường; tôn trọng quyền tự định giá của cá nhân, tổ chức sản
xuất, kinh doanh; khuyến khích, tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng; ổn định
kinh tế vĩ mô, kiềm chế lạm phát và bình ổn thị trường29.
Bốn là, cùng với việc ký kết, gia nhập các
điều ước quốc tế, trong những năm qua, Việt Nam đã đẩy mạnh thực hiện việc rà
soát, sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành mới các văn bản quy phạm pháp luật để phù
hợp với thông lệ quốc tế và các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên, cơ
bản đã theo kịp và tương thích với hầu hết các nguyên tắc, tập quán quốc tế,
góp phần quan trọng trong việc hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam trong các
lĩnh vực thương mại, đầu tư, tài chính, ngân hàng, tương trợ tư pháp, chống
khủng bố, chống tội phạm, chống rửa tiền, chống tham nhũng…
Năm là, Hiến pháp và các đạo luật
đã trở thành nguồn quy phạm quan trọng nhất về giá trị pháp lý
trong việc giải quyết công việc cho nhân dân và trong điều tra, xử lý
các hành vi vi phạm pháp luật. Thêm vào đó, đến nay, tuyệt đại đa số
các lĩnh vực kinh tế - xã hội đều đã được điều chỉnh bởi các đạo
luật. Các đạo luật mang tính rường cột của quốc gia, như Bộ luật Dân
sự, Luật Thương mại, Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư, Bộ luật Lao
động, Bộ luật Hình sự, Bộ luật Tố tụng dân sự, Bộ luật Tố tụng
hình sự, Luật Xử lý vi phạm hành chính, Luật Tố tụng hành chính
và các đạo luật về tổ chức Quốc hội, Chính phủ, tòa án nhân dân,
viện kiểm sát nhân dân, chính quyền địa phương đã được ban hành đầy
đủ. Số lượng đạo luật điều chỉnh lĩnh vực quyền con người, quyền
công dân đã cân xứng hơn so với các đạo luật về tổ chức và hoạt
động của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, cũng như các đạo luật
điều chỉnh các quan hệ dân sự, kinh tế. Trên cơ sở đó, Chính phủ và
các bộ, ngành, chính quyền địa phương đã ban hành nhiều văn bản
hướng dẫn thi hành, góp phần sớm đưa các quy định trong các đạo luật
vào thực tiễn đời sống.
Sáu là, quy trình xây dựng luật, pháp
lệnh đã được đổi mới một bước khá cơ bản theo hướng tách bạch quy trình xây
dựng chính sách với quy trình soạn thảo bảo đảm sự phù hợp của luật, pháp
lệnh với đường lối, chủ trương của Đảng, nâng cao tính công khai, minh bạch
trong xây dựng chính sách, tăng cường, phát huy sự tham gia của nhân dân vào
quy trình xây dựng chính sách, pháp luật của Nhà nước. Đây thực chất là sự
vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về phát huy dân chủ và bảo đảm tính
khách quan trong công tác xây dựng pháp luật trong thực tiễn cải cách,
đổi mới ở nước ta. Trong thực tế, trong những năm gần đây, quy trình
xây dựng pháp luật đã được đổi mới, hoàn thiện theo hướng ngày càng chú trọng
đến công tác xây dựng chính sách, tách bạch giữa xây dựng chính sách và soạn
thảo văn bản, tránh tình trạng “vừa thiết kế vừa thi công”.
Đối với quy trình xây dựng chính sách, cơ quan đề nghị xây dựng
văn bản quy phạm pháp luật phải có trách nhiệm tổng kết việc thi hành pháp
luật, đánh giá các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành có liên quan đến đề
nghị xây dựng văn bản quy phạm pháp luật; khảo sát, đánh giá thực trạng quan hệ
xã hội liên quan; tổ chức nghiên cứu thông tin, tư liệu, điều ước quốc tế mà
Việt Nam là thành viên có liên quan đến đề nghị xây dựng văn bản quy phạm pháp
luật, xây dựng nội dung chính sách trong đề nghị xây dựng văn bản quy phạm pháp
luật, đánh giá tác động của chính sách, dự kiến nguồn lực, điều kiện bảo đảm
cho việc thi hành văn bản sau khi được cơ quan có thẩm quyền thông qua; tổ chức
lấy ý kiến đối với đề nghị xây dựng văn bản quy phạm pháp luật… Tất cả những công
đoạn này đều nhằm mục đích thu thập đầy đủ nhất nguồn thông tin để từ đó đưa ra
những chính sách phù hợp nhất với yêu cầu thực tiễn. Thêm vào đó, chất lượng
công tác thẩm định dự án, dự thảo văn bản quy phạm pháp luật đã được nâng lên
rõ rệt; công tác kiểm tra, rà soát, hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật
được thực hiện có trọng tâm, trọng điểm. Tiến độ xây dựng, ban hành văn bản quy
định chi tiết đã được cải thiện, từng bước đáp ứng yêu cầu công tác triển
khai thi hành luật, pháp lệnh, tình trạng nợ đọng văn bản quy định chi tiết đã
giảm so với các năm trước đây.
Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa theo tiêu chuẩn hiện đại tạo nền tảng pháp lý vững chắc cho việc thúc đẩy nền kinh tế phát triển nhanh và bền vững (Trong ảnh: Một gian trưng bày tại Triển lãm công nghiệp hỗ trợ Việt Nam - Nhật Bản và triển lãm quốc tế công nghệ chế tạo phụ tùng công nghiệp tại Việt Nam). Ảnh: TTXVN
Nhờ thành quả sau gần 35 năm đổi
mới, diện mạo đất nước ta đã hoàn toàn thay đổi. Việt Nam đạt được
những thành tựu mang tính lịch sử trong phát triển kinh tế - xã hội,
bảo đảm quốc phòng, an ninh và hội nhập quốc tế. Trong thành tích
chung đó có đóng góp rất quan trọng của hệ thống pháp luật được xây
dựng dựa trên nền tảng tư tưởng Hồ Chí Minh. Bước vào giai đoạn phát
triển mới, công tác xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, tổ
chức thi hành pháp luật đang đứng trước cả thời cơ và những thách
thức mới, đòi hỏi các cán bộ tham gia công tác tư pháp, pháp luật
cần tiếp tục quán triệt sâu sắc, vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí
Minh để giải quyết các vấn đề thực tiễn đặt ra, tập trung thực hiện
các giải pháp sau:
Thứ nhất, cần quán triệt sâu sắc tư
tưởng Hồ Chí Minh trong xây dựng, hoàn thiện pháp luật, với tinh thần
“việc gì có lợi cho dân… phải hết sức làm. Việc gì có hại đến dân…
phải hết sức tránh”, sớm xây dựng hệ thống pháp luật Việt Nam thống
nhất, đồng bộ, khả thi, công khai, minh bạch, ổn định, dễ tiếp cận với chi phí
tuân thủ thấp, có hiệu lực, hiệu quả cao, có sức cạnh tranh quốc tế,
lấy quyền và lợi ích hợp pháp của người dân là trung tâm, thúc đẩy
đổi mới sáng tạo, bảo đảm yêu cầu phát triển bền vững kinh tế - xã
hội và quốc phòng, an ninh trong điều kiện mới.
Thứ hai, tiếp tục quan tâm hoàn thiện thể
chế về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, chú trọng bảo đảm quyền con người,
phát huy quyền tự do dân chủ của nhân dân đã được đề ra trong các chủ trương,
nghị quyết của Đảng và Hiến pháp 2013, phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế
- xã hội của đất nước. Tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính và cải
cách tư pháp, kiên quyết, kiên trì thực hiện các giải pháp phòng,
chống tham nhũng, bảo đảm xây dựng bộ máy nhà nước thực sự trong
sạch, vận hành thông suốt, hiệu lực, hiệu quả, vì nhân dân. Tạo điều
kiện để người dân thực hiện quyền dân chủ trực tiếp và các quyền tự do, dân chủ
khác, tạo thêm động lực cho cải cách, đổi mới, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt
động của các cơ quan nhà nước, các thiết chế trong hệ thống chính trị; đồng
thời cụ thể hóa Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6 khóa XII về tiếp tục đổi mới,
sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực,
hiệu quả.
Thứ ba, hoàn thiện thể chế kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa theo tiêu chuẩn hiện đại, có sự
cạnh tranh và phù hợp với các thông lệ quốc tế, bảo đảm tối đa
quyền sở hữu tài sản, quyền sở hữu trí tuệ, quyền tự do hợp đồng
và tự do kinh doanh, tạo nền tảng pháp lý vững chắc cho việc thúc
đẩy nền kinh tế phát triển nhanh và bền vững, tận dụng hiệu quả các cơ hội
và ứng phó kịp thời với những thách thức từ cuộc Cách mạng công
nghiệp lần thứ tư. Quan tâm xây dựng khung chính sách, pháp luật đối với hệ
thống chính quyền điện tử hướng tới nền kinh tế số. Xây dựng, thử nghiệm, hoàn
thiện khung khổ pháp lý cho các mô hình kinh doanh mới ứng dụng công nghệ cao,
mô hình kinh tế chia sẻ, giao dịch, quản lý các tài sản kỹ thuật số, đầu tư mạo
hiểm, các phương thức thanh toán mới, hệ thống xác thực và định danh điện tử.
Thứ tư, hoàn thiện cơ chế để chủ động hội
nhập quốc tế, trong đó trọng tâm là hội nhập kinh tế quốc tế, bảo đảm phát
triển kinh tế bền vững, tự chủ, gắn với yêu cầu củng cố quốc phòng, an ninh
chính trị và trật tự, an toàn xã hội, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân
tộc.
Thứ năm, tổ chức tốt việc thi hành
Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật, bảo đảm sự tham gia thực
chất của người dân vào hoạt động xây dựng, pháp luật, coi trọng và
đầu tư thỏa đáng cho công tác điều tra, khảo sát thực tiễn, phân tích
chính sách trong hoạt động xây dựng pháp luật, sớm chuyên nghiệp hóa
các hoạt động phân tích chính sách và soạn thảo pháp luật.
Thứ sáu, đẩy mạnh, nâng cao hiệu quả việc
tổ chức thi hành pháp luật nhằm đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế, bảo đảm thượng tôn pháp luật
trở thành chuẩn mực ứng xử phổ biến trong các cơ quan nhà nước, tổ
chức đoàn thể, các thiết chế khác trong hệ thống chính trị và trong
đời sống thường nhật của cá nhân, doanh nghiệp. Khẩn trương đẩy mạnh
nghiên cứu, hoàn thiện pháp luật về tổ chức thi hành và theo dõi thi hành pháp
luật, quy định cụ thể chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của các cơ
quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội -
nghề nghiệp và mọi công dân trong việc thi hành pháp luật và theo dõi tình hình
thi hành pháp luật.
Kiện toàn và đổi mới về tổ chức, bộ máy, biên chế làm công tác
tổ chức thi hành và theo dõi thi hành pháp luật theo hướng chuyên nghiệp, hiện
đại, đáp ứng được yêu cầu hội nhập quốc tế. Nghiên cứu thành lập cơ quan chuyên
trách theo dõi thi hành pháp luật theo hướng tinh gọn, hiệu quả từ Trung ương
xuống địa phương. Các bộ, ngành Trung ương cần bố trí sắp xếp bảo đảm có cán bộ
chuyên trách về tổ chức thi hành và theo dõi thi hành pháp luật; các địa
phương cần bố trí biên chế pháp chế chuyên trách tại các sở, ngành chuyên môn
thuộc ủy ban nhân dân cấp tỉnh để thực hiện nhiệm vụ công tác pháp chế nói
chung và làm đầu mối công tác tổ chức thi hành và theo dõi thi hành pháp luật
nói riêng. Xây dựng được đội ngũ cán bộ làm công tác thi hành pháp luật có năng
lực chuyên môn và bản lĩnh, phẩm chất chính trị, nghề nghiệp vững vàng, thông
qua việc lập quy hoạch, kế hoạch đào tạo, xây dựng chương trình khung đào tạo,
bồi dưỡng ngắn hạn và dài hạn, nâng cao trình độ chuyên môn cho lực lượng cán
bộ công chức làm công tác thi hành pháp luật tại các bộ, ngành, địa
phương. Tăng cường năng lực phản ứng chính sách trong quá trình tổ chức thi
hành pháp luật, đặc biệt là việc tiếp nhận, xử lý phản ánh, kiến nghị của người
dân và doanh nghiệp về tình hình thi hành pháp luật30.
Thiết lập kênh thông tin đa dạng, thuận lợi, bảo mật để người dân, doanh nghiệp
phát huy tính tự giác, kịp thời khiếu nại, tố cáo về những hành vi nhũng nhiễu,
tiêu cực của cán bộ, công chức, viên chức trong thực thi pháp luật./.
---------------------
1.
Vũ Đình Hòe: Pháp quyền - nhân nghĩa Hồ Chí Minh, Nxb. Văn hóa - Thông tin, Hà
Nội, 2001, tr. 5
2, 3.
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011,
t.4, tr. 7, 21
4. https://moj.gov.vn/qt/tintuc/Pages/nghien-cuu-trao-doi.aspx?ItemID=634
5.
Nguyễn Đình Lộc: Tư tưởng: “Trăm điều phải có thần linh pháp quyền” của Hồ Chí
Minh và việc xây dựng hệ thống pháp luật Việt Nam, trong cuốn sách “Chủ tịch Hồ
Chí Minh với công tác tư pháp””, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, 2010, tr. 45
6.
Nguyễn Đăng Dung (chủ biên), Tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước pháp quyền, Nxb.
Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội, 2007, tr. 93
7. Sắc
lệnh số 51/SL của Chủ tịch nước ngày 17-10-1945
8. Hồ
Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.8, tr. 262
9. Vũ
Đình Hòe: Pháp quyền - nhân nghĩa Hồ Chí Minh, Sđd, tr. 352
10.
Trên cương vị là Chủ tịch nước (từ năm 1945 đến năm 1969), Hồ Chí Minh vừa là
nhà lập pháp, đồng thời là nhà hành pháp có công lớn nhất trong sự nghiệp lập
hiến và lập pháp ở nước ta, đã hai lần đứng đầu Ủy ban soạn thảo Hiến pháp 1946
và Hiến pháp 1959, đã ký công bố 16 đạo luật, 613 sắc lệnh và nhiều văn bản
dưới luật, trong đó có 243 sắc lệnh quy định về tổ chức nhà nước, qua đó hình
thành một thể chế bộ máy nhà nước có nhiều nhân tố cơ bản của một nhà nước pháp
quyền. Nguồn: http://noichinh.vn/nghien-cuu-trao-doi/201402/tu-tuong-ho-chi-minh-ve-nha-nuoc-phap-quyen-293760/
11.
Trần Dân Tiên: Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch, Nxb. Văn học,
1963, tr. 114
12.
Nguyễn Đăng Dung (chủ biên): Tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước pháp quyền, Sđd,
tr.117
13. Hồ
Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.10, tr. 510 - 511
14.
Hoàng Tùng: “Quá trình hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh và giá trị chỉ đạo đối
với cách mạng Việt Nam”, Tạp chí Cộng sản, số 4-1992, tr. 12-13
15. Hồ
Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 5, tr. 285
16. Hồ
Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 5, tr. 330
17. Hồ
Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 13, tr. 71
18. http://vbpl.vn/TW/Pages/vanban.aspx?idLoaiVanBan=16&dvid=13 (truy
cập ngày 4-5-2020)
19. https://thuvienphapluat.vn/phap-luat/tim-van-ban.aspx?keyword=&area=0&type=11&status=0&lan=0&org= 0&signer=0&match=True&sort=1&bdate=04/05/1940&edate=04/05/2020&chlbg=04/05/1940&chlend=04/05/2030
(truy cập ngày 04-5-2020)
20.
Luật Tổ chức Quốc hội, Luật Tổ chức Chính phủ, Luật Tổ chức Tòa
án nhân dân, Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân, Luật Tổ chức chính
quyền địa phương, các đạo luật về tố tụng...
21.
Điều 69 của Hiến pháp năm 2013, Luật Tổ chức Quốc hội năm 2014 có nhiều đổi
mới, quy định chức năng của Quốc hội theo hướng ngắn gọn hơn, theo đó: “Quốc
hội thực hiện quyền lập hiến, quyền lập pháp, quyết định các vấn đề quan trọng
của đất nước và giám sát tối cao đối với hoạt động của Nhà nước”, tạo cơ chế để
hoạt động giám sát của Quốc hội tập trung vào những vấn đề bức thiết, quan
trọng của đất nước
22. Lần
đầu tiên, Quốc hội ban hành Luật Trưng cầu ý dân (năm 2015), Luật Tiếp
cận thông tin (năm 2016)
23.
Hiến pháp năm 2013 bổ sung, ghi nhận nhiều quyền mới như quyền sống (Điều 19);
quyền được sống trong môi trường trong lành (Điều 43); quyền không bị trục
xuất, giao nộp cho nước khác (Khoản 2, Điều 17); quyền có nơi ở hợp pháp (Điều
22); quyền được hưởng an sinh xã hội (Điều 34); quyền hưởng thụ và tiếp cận các
giá trị văn hóa, tham gia đời sống văn hóa, sử dụng các cơ sở văn hóa (Điều
41); quyền xác định dân tộc, sử dụng ngôn ngữ mẹ đẻ, lựa chọn ngôn ngữ giao
tiếp (Điều 42)… Hiến pháp năm 2013 cũng quy định rõ ràng, đầy đủ hơn nội hàm
của các quyền mà Hiến pháp 1992 đã quy định, đó là các quyền bình đẳng, không
bị phân biệt đối xử trước pháp luật (Điều 16); không bị tra tấn, bạo lực, truy
bức, nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử nào khác xâm phạm thân thể, sức
khỏe, xúc phạm danh dự, nhân phẩm (khoản 1 Điều 20); quyền bảo vệ đời tư (Điều
21); quyền tiếp cận thông tin (Điều 25); quyền tham gia quản lý nhà nước và xã
hội (Điều 28); quyền bình đẳng giới (Điều 26); quyền biểu quyết khi Nhà nước tổ
chức trưng cầu ý dân (Điều 29)...
24. Bộ
luật Dân sự năm 2015, Luật Đất đai năm 2013, Luật Quản lý, sử dụng
vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh tại doanh nghiệp năm
2014, Luật Quản lý, sử dụng tài sản công năm 2017...
25.
Luật Doanh nghiệp năm 2014 (sửa đổi, bổ sung năm 2016), Luật Đầu tư năm
2014…
26.
Luật Quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh
tại doanh nghiệp năm 2014; Nghị định số 126/2017/NĐ-CP, ngày 16-11-2017,
về chuyển doanh nghiệp nhà nước và công ty TNHH một thành viên do doanh
nghiệp nhà nước đầu tư 100% vốn điều lệ thành công ty cổ phần; Nghị
định số 94/2017/NĐ-CP, ngày 10-8-2017, về hàng hóa, dịch vụ, địa bàn
thực hiện độc quyền nhà nước trong hoạt động thương mại…
27.
Quyền tự do kinh doanh được Hiến pháp năm 2013 quy định theo hướng: “Mọi
người có quyền tự do kinh doanh trong những ngành nghề mà pháp luật không cấm”
(Điều 33), đồng thời Hiến pháp cũng khẳng định các chủ thể thuộc các thành
phần kinh tế bình đẳng với nhau trong hoạt động; tạo bước đột phá mạnh mẽ hơn
về quyền tự do kinh doanh và sự bình đẳng trong hoạt động kinh doanh giữa các
thành phần kinh tế. Tiếp đó, Luật Doanh nghiệp năm 2014 và Luật Đầu tư năm 2014
đã được ban hành theo hướng đơn giản hóa điều kiện, thủ tục cấp phép, dỡ bỏ
hàng loạt hạn chế, bất cập của quy định cũ, mở rộng các nhóm quyền tự quyết của
doanh nghiệp
28.
Luật Đất đai năm 2013 và các văn bản hướng dẫn thi hành
29.
Luật Giá năm 2012 và các văn bản hướng dẫn thi hành
30.
Thiết lập các hình thức đa dạng, linh hoạt trong tiếp nhận kiến nghị, phản ánh
của doanh nghiệp trong thực thi pháp luật, trong đó chú trọng việc ghi nhận, xử
lý công khai, công bằng, nhanh chóng, khách quan, đúng thẩm quyền; chủ động tổ
chức đối thoại với doanh nghiệp về các quy định của pháp luật về đầu tư, kinh
doanh để có các biện pháp chỉ đạo, giải quyết kịp thời các khó khăn, vướng mắc
mà doanh nghiệp phản ánh, kiến nghị; trường hợp không giải quyết được cũng cần
giải thích, thông tin trả lời rõ ràng, minh bạch
Đang truy cập: 473
Hôm nay: 2,323
Tổng lượt truy cập: 1,137,050