Năm nay,
toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta kỷ niệm 50 thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ
Chí Minh. Bản Di chúc của Người mang tầm tư tưởng của thời đại, có ý nghĩa lý
luận và thực tiễn sâu sắc, là những chỉ dẫn quý báu cho Đảng và nhân dân ta
trước đây, hiện nay và mai sau. Qua 50 năm thực hiện bản Di chúc bất hủ của
Bác; đọc lại và chiêm nghiệm sâu sắc Di chúc của Người, có thể rút ra nhiều bài
học quý báu.
Chủ tịch Hồ Chí Minh gặp mặt thân mật
các đại biểu dự Đại hội liên hoan Anh hùng,
Chiến sỹ thi đua ngành nông nghiệp
và Đổi công toàn quốc tại Hà Nội, ngày 23/5/1957. Ảnh: Tư liệu TTXVN
Bài học thứ nhất, về tinh thần lạc
quan và bản lĩnh khoa học cách mạng của Đảng. Di chúc của Người được viết trong
bối cảnh cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của dân tộc ta đang trong giai
đoạn hết sức ác liệt. Niềm tin sâu sắc về cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước
"nhất định thắng lợi hoàn toàn. Đó là một điều chắc chắn" trong Di
chúc của Bác, đã truyền ngọn lửa niềm tin đến mỗi người dân Việt Nam và tạo nên
sức mạnh to lớn-sức mạnh của niềm tin, của ý chí cách mạng của toàn dân tộc,
làm nên Đại thắng mùa Xuân năm 1975 có tầm vóc vĩ đại nhất trong cuộc kháng
chiến chống Mỹ, cứu nước và trong lịch sử giải phóng dân tộc.
Sau kháng chiến chống Mỹ, cứu nước,
trong những năm đầu thập kỷ 1980, đất nước ta phải đối mặt với muôn vàn khó
khăn, khi phải khôi phục đất nước bị tàn phá nặng nề sau chiến tranh và cả
những yếu kém, bất cập của cơ chế hành chính quan liêu bao cấp, trong bối cảnh
nền kinh tế rơi vào khủng hoảng trầm trọng. Chính trong hoàn cảnh đó, Đảng ta
lại chứng tỏ bản lĩnh khoa học và cách mạng, bằng việc khởi xướng và lãnh đạo
thực hiện công cuộc đổi mới toàn diện đất nước mà trước hết là đổi mới tư duy
kinh tế. Tại Đại hội VI, Đảng ta đã dũng cảm "nhìn thẳng vào sự
thật", thực hiện tự phê bình và phê bình, nghiêm túc rút ra những bài học
lịch sử của cách mạng Việt Nam: "Lấy dân làm gốc", "Tôn trọng và
hành động theo quy luật khách quan", "Đoàn kết toàn dân" phát
huy sức mạnh tổng hợp để bảo vệ Tổ quốc và xây dựng chủ nghĩa xã hội (CNXH). Cuối
những năm 80 và đầu những năm 90 của thế kỷ trước, khi chế độ xã hội chủ nghĩa
(XHCN) ở Liên Xô và các nước Đông Âu sụp đổ, hệ thống các nước XHCN lâm vào
thoái trào, vượt qua cơn "động đất chính trị" trên thế giới, một lần
nữa Đảng ta đã tỏ rõ bản lĩnh khoa học cách mạng của mình để đưa đất nước đứng
vững, tiếp tục tiến hành sự nghiệp đổi mới và đã đạt được những thành tựu to
lớn, có ý nghĩa lịch sử trong hơn 30 năm qua.
Bài học thứ hai, về sự đoàn kết, thống
nhất trong Đảng. Trong Di chúc, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định "Đoàn kết
là một truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng và của dân ta". Từ khi thành
lập Đảng năm 1930, việc giữ gìn sự đoàn kết thống nhất trong Đảng là nhân tố
quyết định thành công trong mọi nhiệm vụ, "tiến từ thắng lợi này đến đến thắng
lợi khác". Nhờ đoàn kết, Đảng đã lãnh đạo cách mạng nước ta giành hết
thắng lợi này đến thắng lợi khác, lập nên những kỳ tích vang dội trong thế kỷ
20 và gần hai thập niên đầu thế kỷ 21. Đó là thắng lợi của Cuộc cách mạng Tháng
Tám năm 1945, lật đổ ách thống trị gần 100 năm của thực dân Pháp và triều đình
phong kiến, lập nên nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á; thắng lợi của
cuộc kháng chiến trường kỳ 9 năm chống thực dân Pháp và can thiệp Mỹ, kết thúc
bằng Chiến dịch Điện Biên Phủ "chấn động địa cầu"; thắng lợi của cuộc
kháng chiến hơn 20 năm chống Mỹ, cứu nước, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống
nhất Tổ quốc, đưa cả nước đi lên CNXH; thắng lợi của sự nghiệp đổi mới đất nước
trong hơn 30 năm qua, vượt qua mọi khó khăn, bao vây cấm vận, đưa nước ta ra
khỏi khủng hoảng kinh tế-xã hội… Những năm qua, Đảng tiếp tục lãnh đạo hệ thống
chính trị và nhân dân thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XII của Đảng với
mục tiêu sớm đưa nước ta trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
Đoàn kết thống nhất trong Đảng cũng là
chiến lược lâu dài đối với sự nghiệp cách mạng. Là Đảng duy nhất cầm quyền,
Đảng ta càng phải xây dựng, củng cố sự đoàn kết thống nhất như trong bản Di
chúc Bác đã nhấn mạnh: "Giữ gìn sự đoàn kết và nhất trí của Đảng như giữ
gìn con ngươi của mắt mình". Đoàn kết của Đảng chính là tấm gương cho cả
hệ thống chính trị và là nhân tố quyết định bảo đảm đại đoàn kết dân tộc. Đảng
ta thường xuyên thực hiện lời dạy của Bác để tiến hành công tác xây dựng, chỉnh
đốn Đảng. Ngay trong nhiệm kỳ Đại hội XII này, Đảng đã ban hành nghị quyết các
Hội nghị Trung ương 4, 6, 7 về xây dựng, chỉnh đốn Đảng và ban hành Quy định số
08-QĐi/TW của Ban Chấp hành Trung ương tại Hội nghị Trung ương 8 về "Trách
nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, trước hết là Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy
viên Ban Bí thư và Ủy viên Ban chấp hành Trung ương".
Bài học
thứ ba về thực hành dân chủ rộng rãi, thường xuyên, nghiêm chỉnh tự phê bình và
phê bình. Để xây dựng sự đoàn kết, thống nhất của Đảng theo Di chúc của Chủ
tịch Hồ Chí Minh, Đảng ta phải thực hành dân chủ thực sự. Nhờ phát huy và mở
rộng dân chủ, Đảng ta đã khơi dậy, phát huy cao nhất trí tuệ, nâng cao năng lực
lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng. Chính việc phát huy dân chủ rộng rãi trong
Đảng đã từng bước khắc phục tình trạng bè cánh, cục bộ, địa phương chủ nghĩa,
nhất là trong cơ chế thị trường hiện nay, khắc phục tình trạng "lợi ích
nhóm", "cánh hẩu…", "con ông cháu cha", "một
người làm quan cả họ có vị trí"…; từng bước cũng khắc phục tình trạng quan
liêu, hách dịch, cửa quyền, xa rời quần chúng của một bộ phận "quan cách
mạng". Các nghị quyết của Đảng cũng nêu rõ thực hành dân chủ rộng rãi,
nghĩa là phải dân chủ thực sự, tránh "dân chủ hình thức", dân chủ
phải tiến hành thường xuyên, dân chủ từ Trung ương đến cơ sở. Nhưng Đảng ta
cũng khẳng định theo nguyên lý của Chủ
nghĩa Mác-Lênin, dân chủ phải gắn với tập trung. Tập trung dân chủ là nguyên
tắc sống còn và cũng là biện pháp tốt nhất để xây dựng Đảng ta. Kiên quyết đấu
tranh chống lại những biểu hiện trong thực hành dân chủ hình thức, hoặc lợi
dụng dân chủ để truyền bá, tán phát những quan điểm, tư tưởng cá nhân, xâm hại
đến lợi ích chung, gây mất đoàn kết trong Đảng và trong xã hội. Thực hiện Di
chúc của Bác, Đảng ta cũng thường xuyên và nghiêm chỉnh tiến hành tự phê bình
và phê bình. Đây là nguyên tắc, là quy luật phát triển của Đảng. Trong Di chúc,
Bác coi đây là biện pháp tốt nhất để củng cố, phát triển sự đoàn kết, thống
nhất của Đảng. Người yêu cầu tự phê bình và phê bình phải thường xuyên, nghiêm
túc, không nể nang, qua loa đại khái, hình thức. Mục đích của tự phê bình và
phê bình là giúp cho bản thân và đồng đội ngày càng tiến bộ hơn; tuyệt đối
không vì mâu thuẫn cá nhân, động cơ cá nhân mà tiến hành phê bình theo kiểu
"vạch lá tìm sâu", "bới lông tìm vết" nhằm trù dập, đấu đá,
hạ bệ lẫn nhau. Theo Bác, tự phê bình và phê bình là công việc thường xuyên,
ngừng tự phê bình và phê bình tức là ngừng tiến bộ, là thoái bộ.
Bài học thứ tư là sự quan tâm đặc biệt
sâu sắc với thế hệ trẻ-những chủ nhân tương lai của đất nước. Từ khi Đảng mới
thành lập, trong các văn kiện, Đảng ta luôn dành sự quan tâm sâu sắc đến lớp
người trẻ tuổi; đoàn viên, thanh niên là những người kế tục sự nghiệp cách mạng
của Đảng, là đội hậu bị tin cậy của Đảng. Trong Di chúc, Bác căn dặn:
"Đảng cần phải chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng cho họ, đào tạo họ thành
những người thừa kế xây dựng xã hội chủ nghĩa vừa "hồng", vừa
"chuyên". Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc làm rất
quan trọng và rất cần thiết". Bác nói công việc này "quan trọng"
vì không ai khác ngoài các thế hệ thanh niên sẽ kế tục sự nghiệp cách mạng.
Bài học
thứ năm, là sự chăm lo, không ngừng nâng cao đời sống của các tầng lớp nhân
dân. Quan tâm tới nhân dân là bổn phận, trách nhiệm của Đảng bởi lợi ích của
Đảng không nằm ngoài lợi ích của dân tộc, của nhân dân. Thực hiện Di chúc của
Người, sau khi thống nhất đất nước, dưới sự lãnh đạo của Đảng, kinh tế của đất
nước đã từng bước khởi sắc. Từ một nước thuộc nhóm nước nghèo, thu nhập thấp,
chúng ta đã gia nhập nhóm các nước đang phát triển có thu nhập trung bình. Nếu
năm 1990 bình quân thu nhập mới đạt 200USD/người thì đến nay đã đạt
2.600USD/người. Bộ mặt đất nước từ đô thị đến các vùng nông thôn có nhiều khởi
sắc; niềm tin của nhân dân đối với Đảng ngày càng được củng cố, tăng cường.
Bài học thứ sáu, là tinh thần cống
hiến cho lý tưởng cách mạng. Khi nói về việc riêng trong Di chúc, Bác bộc bạch:
"Chỉ tiếc là tiếc rằng không được phục vụ lâu hơn nữa, nhiều hơn nữa"
cho Tổ quốc, cho cách mạng và cho nhân dân. Bác nhấn mạnh từ "phục
vụ", nhằm nói rõ nhiệm vụ của người làm cách mạng là phải quên mình phục
vụ Tổ quốc, nhân dân. Người cán bộ vừa là người lãnh đạo, vừa là người
"đầy tớ" trung thành của nhân dân, không đòi hỏi một quyền lợi riêng
cho mình, cống hiến trọn đời cho nhân dân, cho Tổ quốc. Cuộc đời của Bác là một
tấm gương sáng ngời thể hiện những phẩm chất cần, kiệm, liêm, chính, chí công
vô tư… Chính vì vậy, Bộ Chính trị (khoá XI) đã ban hành Chỉ thị số 03- CT/TW về
"Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh"; Bộ Chính trị
(khoá XII) ban hành Chỉ thị số 05-CT/TW về "Đẩy mạnh học tập và làm theo
tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh" để toàn Đảng, toàn dân và toàn
quân học tập, noi theo.
Kỷ niệm 50 năm Ngày Chủ tịch Hồ Chí
Minh đi xa, là dịp để chúng ta ôn lại những lời căn dặn của Người trong bản Di
chúc lịch sử, mang tầm tư tưởng của thời đại, để mỗi cán bộ, đảng viên, mỗi tổ
chức Đảng tự soi rọi lại mình, tăng thêm nghị lực và ý chí hành động; quyết tâm
xây dựng Đảng ta trong sạch, vững mạnh, xứng đáng là lực lượng tiên phong lãnh
đạo Nhà nước và toàn xã hội, đáp ứng lòng mong đợi của cán bộ, đảng viên và
nhân dân; "xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân
chủ và giàu mạnh và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới",
như di nguyện của Bác Hồ kính yêu./.
TS BÙI THẾ ĐỨC
Phó chủ tịch Hội đồng Lý luận, phê
bình văn học, nghệ thuật Trung ương
(Tạp chí của Ban Tuyên giáo Trung ương)
Đang truy cập: 261
Hôm nay: 377
Tổng lượt truy cập: 1,109,296