Hồ
Chí Minh đã đi xa 50 năm, nhưng Người không phải là một kỷ niệm của quá khứ mà
sống mãi. Người cùng những cống hiến, phẩm cách cao quý của mình và những lời
dặn lại cho hậu thế trở nên diệu kỳ trong ký ức tất cả mọi thời đại. Coi sự
nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc là tiền đề, điều kiện để xây dựng và phát
triển một nước Việt Nam “đàng hoàng hơn, to đẹp hơn”, kế hoạch tái thiết đất
nước - Cương lĩnh xây dựng đất nước sau chiến tranh là sợi chỉ đỏ bao trùm và
xuyên suốt trong bản Di chúc Người
để lại cho toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta.
NGƯỜI CỘNG
SẢN HỒ CHÍ MINH VÀ MẤY DÒNG DẶN LẠI
Hồ Chí
Minh và bản Di chúc Người để lại thực sự là một mẫu mực về sự nhân ái, vị tha,
khoan dung, độ lượng, đầy tình nghĩa và sâu sắc cùng với sự khoáng đạt, cởi mở,
hài hòa đạt đên sự hoàn chỉnh của chân, thiện, mỹ. Mỗi câu, mỗi chữ đều hiển
hiện trăn trở, suy tư và tình thương yêu của Người, có sức cảm hóa, lay động
muôn triệu trái tim người dân Việt Nam và nhân loại yêu chuộng hòa bình, tự do,
công lý.
Hồ Chí
Minh không chỉ suốt đời phấn đấu cho cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, giải
phóng giai cấp và giải phóng con người mà Người còn mang theo khát vọng về một
đất nước Việt Nam độc lập, hoà bình, thống nhất, dân chủ và giàu mạnh cùng một
thế giới hạnh phúc cho con người vào cõi vĩnh hằng. Vì thế, không phải ngẫu
nhiên, giữa những ngày tháng miền Bắc đang chống chọi cùng mưa bom, bão đạn của
đế quốc Mỹ (1965), một Hồ Chí Minh giữa bộn bề công việc quốc gia lại dành thời
gian về thăm và tưởng nhớ Nguyễn Trãi ở Côn Sơn. Càng không phải ngẫu nhiên,
trong những năm cuối của đời mình, Người lại trăn trở, xót xa nỗi đau “nhân
thế” của tiền nhân đã chôn vùi trong lòng đất mẹ bao năm. Tại đền thờ tiền
nhân, Người dừng lại hồi lâu ngẫm đọc những dòng chữ trên văn bia, leo lên
Thạch Bàn; lường trước được quy luật khắc nghiệt của tạo hoá, Người biết rõ
điều gì ắt sẽ qua đi, điều gì ắt sẽ đến và điều gì là trường tồn. Với phong
cách ung dung, tự tại của một bậc đại nhân, đại trí, đại dũng, Hồ Chí Minh gửi
những suy tư “theo đức hiếu sinh để toàn vẹn cho sự sống còn của nhân dân”
trong tâm khảm mình vào những lời cuối cùng để lại cho hậu thế.
Chuẩn bị
cho chuyến đi xa vĩnh viễn của mình, một Hồ Chí Minh khi còn anh minh, tỉnh táo
đã dành mỗi ngày khoảng từ 1 đến 2 giờ của những ngày tháng 5 đẹp trời (từ năm
1965 đến năm 1969) để viết “Tài liệu liệu tuyệt đối bí mật” gửi lại cho mai
sau. “Tài liệu tuyệt đối bí mật” - bản Di chúc lịch sử được Hồ Chí Minh khởi
thảo tại Hà Nội, vào dịp sinh nhật lần thứ 75 (5/1965). Trong những năm tiếp
sau đó, cũng vào dịp kỷ niệm ngày sinh, Người lại đọc, suy ngẫm, trăn trở để
chỉnh sửa, bổ sung vào những “lời dặn lại” đặc biệt của mình, cho đến khi trái
tim đó ngừng đập vĩnh viễn vào lúc 9 giờ 47 phút ngày 2/9/1969.
Khi Hồ Chí
Minh khởi thảo Di chúc, trong nước, cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của
nhân dân ta đang ở vào thời kỳ quyết liệt nhất: Ở miền Nam, đế quốc Mỹ ồ ạt đưa
50 vạn quân vào miền Nam, chuyển từ chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” sang
chiến lược “Chiến tranh cục bộ”; ở miền Bắc - hậu phương lớn của tiền tuyến lớn
miền Nam đang phải tiếp tục chống lại cuộc chiến tranh phá hoại ngày càng ác
liệt nhằm đưa nơi này “trở về thời kỳ đồ đá”… Trong khi đó, tình hình quốc tế
cũng có nhiều biến động; giữa các Đảng anh em trong phong trào cộng sản và công
nhân quốc tế cũng còn những bất đồng,v.v.. Đánh giá đúng, tiên lượng được sự
kết thúc cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước ở Việt Nam; với khí phách anh hùng
được kết tinh từ truyền thống đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc; với
sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng, Hồ Chí Minh
vững tin vào thắng lợi của sự nghiệp đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất
Tổ quốc, xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước trong tương lai. Vì vậy, trong
Di chúc, Người khẳng định: “Cuộc chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta dù phải
kinh qua gian khổ, hy sinh nhiều hơn nữa, song nhất định thắng lợi hoàn toàn.
Đó là một điều chắc chắn”; “Dù khó khăn đến mấy nhân dân ta nhất định sẽ hoàn
toàn thắng lợi. Đế quốc Mỹ nhất định phải cút khỏi đất nước ta, Tổ quốc ta nhất
định sẽ thống nhất. Đồng bào Nam, Bắc nhất định sẽ sum họp một nhà” và Người
hẹn “tôi có ý định đến ngày đó, tôi sẽ đi khắp hai miền Nam Bắc để chúc mừng
đồng bào, cán bộ, và chiến sĩ anh hùng, thăm hỏi các cụ phụ lão, các cháu thanh
niên và nhi đồng yêu quí của chúng ta”.
Lịch sử
cách mạng Việt Nam từ khi có Đảng lãnh đạo đã chứng minh rằng, mỗi thắng lợi
của nhân dân Việt Nam trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, kháng
chiến, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đều có sự ủng hộ về tinh thần và lực lượng,
sự đoàn kết, sẻ chia của các nước anh em, các dân tộc yêu chuộng hòa bình trên
thế giới. Trong Di chúc, không chỉ khẳng định những thắng lợi mà nhân dân Việt
Nam giành được luôn gắn liền với tình đoàn kết giúp đỡ của bạn bè quốc tế; bày
tỏ lòng biết ơn sâu sắc với sự chi viện quý báu đó, Hồ Chí Minh còn dự định khi
chiến tranh kết thúc “sẽ thay mặt nhân dân ta đi thǎm và cảm ơn các nước anh em
trong phe xã hội chủ nghĩa, và các nước bầu bạn khắp nǎm châu đã tận tình ủng
hộ và giúp đỡ cuộc chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta".
Một Hồ Chí
Minh không chỉ đánh giá cao vai trò của tình đoàn kết quốc tế; luôn chung sức,
góp phần xây dựng và củng cố tình đoàn kết mà còn nặng trĩu tâm tư, đau lòng
trước sự rạn nứt trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế khi viết: “Là
một người suốt đời phục vụ cách mạng, tôi càng tự hào với sự lớn mạnh của phong
trào cộng sản và công nhân quốc tế bao nhiêu, thì tôi càng đau lòng bấy nhiêu vì
sự bất hoà hiện nay giữa các đảng anh em!”. Đã từng thực hiện sứ mệnh hòa bình
để góp phần củng cố tình đoàn kết giữa các đảng anh em, Hồ Chí Minh tiếp tục
“sứ mệnh” ấy khi dặn lại và mong “Đảng sẽ ra sức hoạt động, góp phần đắc lực
vào việc khôi phục lại khối đoàn kết giữa các đảng anh em trên nền tảng chủ
nghĩa Mác - Lênin và chủ nghia quốc tế vô sản, có lý có tình”; đồng thời, “tin
chắc rằng các đảng anh em và các nước anh em nhất định sẽ phải đoàn kết lại”.
Với chiều
sâu của tư tưởng và dung dị trong diễn đạt giữa cái lớn lao, cái vĩ đại (vấn đề
quốc gia, quốc tế) với cái điềm đạm, sâu lắng nhưng mãnh liệt, nồng nàn về cuộc
sống đời thường (về việc riêng); với trách nhiệm trước hậu thế, Hồ Chí Minh đã
cân nhắc từng ý, từng lời dặn lại mà mỗi ý, mỗi lời đều chân thành, trong sáng,
tự nhiên như chính cuộc đời Người. Ung dung, thư thái đến lạ thường đối với
“việc riêng”, Hồ Chí Minh đã từ nhận thức quy luật muôn đời của tạo hóa, dẫn
câu thơ của Đỗ Phủ “nhân sinh thất thập cổ lai hy”, ví mình đã là hạng người
“xưa nay hiếm” để thanh thản chuẩn bị về với cõi vĩnh hằng. Bằng cách nói nhẹ
nhàng, chỉ là để “phòng khi tôi sẽ đi gặp các cụ Các Mác, cụ Lê Nin và các vị
cách mạng đàn anh khác, thì đồng bào cả nước, đồng chí trong Đảng và bầu bạn
khắp nơi đều khỏi cảm thấy đột ngột”, Người khiêm nhường tự xem mình là một
người lính nhận sự ủy thác của nhân dân, đã “suốt đời hết lòng hết sức phục vụ
Tổ quốc, phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân”. Cho nên, cũng thật giản dị, Người
“không có điều gì phải hối hận, chỉ tiếc là tiếc rằng không được phục vụ lâu
hơn nữa, nhiều hơn nữa”. Suốt đời tự nguyện, tận tâm, tận lực làm người “công
bộc”, “người đày tớ” thật trung thành của nhân dân, nên khi từ biệt thế giới
này, Người vẫn khôn nguôi ý niệm chăm lo cho nhân dân, không muốn vì mình mà
nhân dân vất vả. Vì thế, Hồ Chí Minh dặn lại hãy hỏa táng và “chớ nên tổ chức
điếu phúng linh đình để khỏi lãng phí thời giờ và tiền bạc của nhân dân”…
TS Nguyễn Thị Hoa Xinh phát biểu tại hội thảo khoa
học
“Di chúc của Chủ Tịch Hồ Chí Minh - Ánh sáng của trí tuệ và niềm tin”
Cuối cùng,
Người “để lại muôn vàn tình thương yêu cho toàn dân, toàn Đảng, cho toàn thể bộ
đội, cho các cháu thiếu niên và nhi đồng” và
không quên “gửi lời chào thân ái đến các đồng chí, các bầu bạn và các
cháu thanh niên, nhi đồng quốc tế”; đồng thời, hy vọng “toàn Đảng ta, toàn dân
ta đoàn kết phấn đấu, xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập,
dân chủ và giàu mạnh, và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới”.
Chắt chiu
về tư tưởng, sâu lắng trong tâm hồn, mẫu mực về đạo đức và phong cách, hiển
hiện tầm cao một cốt cách lớn “cao mà không xa”, “sáng mà không chói” trong Di
chúc, từ Di chúc của Hồ Chí Minh không chỉ hàm chứa những trăn trở, suy tư sâu
sắc về dân tộc và quốc tế, hiện tại và tương lai của nước nhà mà còn hiển hiện
tình thương yêu vô bờ bến với thiên nhiên, con người và cuộc đời. Di chúc là
tâm nguyện, tình cảm, ý chí, niềm tin, trách nhiệm của Hồ Chí Minh với Tổ quốc,
nhân dân và hành trình xây dựng đất nước Việt Nam trong tương lai.
CƯƠNG LĨNH
TÁI THIẾT ĐẤT NƯỚC "ĐÀNG HOÀNG HƠN, TO ĐẸP HƠN"
Kiên định
mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên định khát vọng xây dựng một
đất nước Việt Nam đàng hoàng hơn, to đẹp hơn trong tương lai, ở vào thời khắc
cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đầy cam go, Hồ Chí Minh không chỉ lường
trước những khó khăn, thách thức của cách mạng Việt Nam mà còn dự cảm trước những phức tạp, đầy gian nan của đất nước
thời hậu chiến. Người nhấn mạnh: “Ngay sau khi cuộc chống Mỹ, cứu nước của nhân
dân ta đã hoàn toàn thắng lợi, công việc của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân
ta phải ra sức làm là mau chóng hàn gắn vết thương nghiêm trọng do đế quốc Mỹ
gây ra trong cuộc chiến tranh xâm lược dã man”; đồng thời, hoạch định một kế
hoạch - một Cương lĩnh hành động để xây dựng và phát triển đất nước trong tương
lai, dù biết rằng “đó là một công việc cực kỳ to lớn, phức tạp và khó khăn”.
Thấu hiểu
sâu sắc rằng “phá cái cũ đổi ra cái mới, phá cái xấu đổi ra cái tốt” bao giờ
cũng khó, Người khẳng định, “xây dựng lại đất nước là một cuộc cách mạng “rất
to lớn, nặng nề và phức tạp, mà cũng rất vẻ vang” và đó cũng chính là một cuộc
chiến đấu nhằm “chống lại những gì cũ kỹ, hư hỏng, để tạo ra những gì mới mẻ,
tốt tươi”; đồng thời nhấn mạnh, “Đảng cần phải có kế hoạch thật tốt để phát
triển kinh tế và văn hóa nhằm không ngừng nâng cao đời sống nhân dân”. Ngắn gọn
nhưng súc tích, nội dung này bao hàm một kế hoạch tái thiết đất nước tổng thể,
“rất to lớn, nặng nề, và phức tạp” trên nhiều lĩnh vực, không ngoài mục đích
không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân.
Cụ thể, Hồ
Chí Minh nhấn mạnh, “chúng ta phải có kế hoạch sẵn sàng, rõ ràng, chu đáo để
tránh bị động, thiếu sót và sai lầm” để “xây dựng lại thành phố và làng mạc đẹp
đẽ, đàng hoàng hơn trước chiến tranh. Khôi phục và mở rộng các ngành kinh tế.
Phát triển công tác vệ sinh, y tế. Sửa đổi chế độ giáo dục cho hợp với hoàn
cảnh của nhân dân, như phát triển các trường nửa ngày học tập, nửa ngày lao động.
Củng cố quốc phòng. Chuẩn bị mọi việc để thống nhất Tổ quốc…”. Sự “chu đáo”,
“chủ động” ở đây theo Người là phải chuẩn bị “tái thiết” lại lực lượng lãnh đạo
cách mạng; phải có chiến lược xây dựng đội ngũ kế cận; phải khoan thư sức dân
để làm kế sâu rễ bền gốc, để củng cố và nhân nguồn sức mạnh của khối đoàn kết
toàn dân- những nhân tố quan trọng, đảm cho cho quá trình xây dựng và phát
triển đất nước thành công.
Trong kế
hoạch “tái thiết” của mình, Hồ Chí Minh căn dặn cụ thể về từng đối tượng và
những việc cần phải làm như sau:
Một là,
“trước hết nói về Đảng”, Hồ Chí Minh khẳng định: “Việc cần phải làm trước tiên
là chỉnh đốn lại Đảng”. Luôn khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng và với tiên
liệu của mình về sự suy thoái của một bộ phận cán bộ, đảng viên khi đất nước
chuyển từ thời chiến sang thời bình, trong Di chúc, Người đã đặt nhiệm vụ chỉnh
đốn Đảng lên “trước tiên”. Thực tế, “chỉnh đốn lại Đảng” là yêu cầu khách quan,
tất yếu, là công việc nội tại, thường xuyên của Đảng cầm quyền, để “làm cho mỗi
đảng viên, mỗi đoàn viên, mỗi chi bộ đều ra sức làm tròn nhiệm vụ Đảng giao phó
cho mình, toàn tâm, toàn ý phục vụ nhân dân. Làm được như vậy, thì dù công việc
to lớn mấy, khó khăn mấy chúng ta cũng nhất định thắng lợi”. Hơn nữa, vì “Đảng
ta một đảng cầm quyền”, nên muốn ra sức làm tròn nhiệm vụ trước Tổ quốc và nhân
dân, muốn liêm chính và phụng sự trong tư tưởng và hành động, thì phải tập trung
thực hiện 3 nội dung chính. 1) “Đoàn kết là một truyền thống cực kỳ quý báu của
Đảng và của dân ta. Các đồng chí từ Trung ương đến các chi bộ cần phải giữ gìn
sự đoàn kết nhất trí như giữ gìn con ngươi của mắt mình”. 2) “Trong Đảng phải
thực hành dân chủ rộng rãi, thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình và phê
bình là cách tốt nhất để củng cố và phát triển sự đoàn kết và thống nhất của
Đảng. Phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau”. 3) “Mỗi đảng viên và cán bộ
phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí
công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh
đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”. Đây chính là những nội
dung quan trọng về lý luận xây dựng một Đảng cầm quyền trong sạch, vững mạnh,
đáp ứng yêu cầu của tình hình và nhiệm vụ của một Đảng cách mạng chân chính.
Hai là,
đối với “đoàn viên và thanh niên” - lực lượng kế cận rường cột của Đảng, Hồ Chí
Minh căn dặn: “Đảng cần phải chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng cho họ, đào tạo
họ thành những người thừa kế xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa “hồng” vừa “chuyên”.
Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và rất cần
thiết”. Với, “những chiến sỹ trẻ tuổi trong các lực lượng vũ trang nhân dân và
thanh niên xung phong”, Đảng và chính phủ cần chọn một số ưu tú nhất, cho các
cháu ấy học thêm các ngành, các nghề để tạo thành những cán bộ và công nhân có
kỹ thuật giỏi, tư tưởng tốt, lập trường cách mạng vững chắc. Đó là đội quân chủ
lực trong công cuộc xây dựng thắng lợi chủ nghĩa xã hội ở nước ta”. Sự lựa chọn
chính xác, thấu tình đạt lý để dự liệu và xây dựng lực lượng kế cận, đảm bảo sự
chuyển giao thế hệ liên tục trong Di chúc không chỉ thể hiện tầm nhìn xa, chiến
lược của Hồ Chí Minh về công tác cán bộ, xây dựng đội ngũ cán bộ đáp ứng yêu
cầu của tình hình, nhiệm vụ đất nước sau chiến tranh mà còn thể hiện chiều sâu
tư tưởng nhân văn của Hồ Chí Minh đối với con người, vì con người.
Tuổi trẻ Đoàn Khối các cơ quan Trung ương khánh
thành công trình 'Vườn cây thanh niên" tại tỉnh Cao Bằng
Ba là,
“đầu tiên là công việc đối với con người”- con người vừa là mục tiêu, vừa là
động lực của cách mạng, nên chăm lo cho con người là nội dung chính cũng là
việc phải làm “đầu tiên” trong kế hoạch tái thiết đất nước. Một Hồ Chí Minh
luôn yêu thương nhân dân, gắn bó mật thiết với nhân dân, bao dung, nhân hòa
trong từng cách xử thế đã không quên dành tình thương yêu một “đối tượng” nào
trong “các tầng lớp nhân dân của mình”- những người đã không quản sức lực, máu
xương cống hiến, hy sinh cho nền độc lập, tự do của Tổ quốc. Nội dung này cũng
được Hồ Chí Minh viết dường như dài nhất, trĩu nặng nhất trong Di chúc.
Trân trọng
mỗi sự đóng góp, với những người “đã dũng cảm hy sinh một phần xương máu của
mình (cán bộ, binh sĩ, dân quân, du kích, thanh niên xung phong…), Người mong
“Đảng, Chính phủ và đồng bào phải tìm mọi cách làm cho họ có nơi ăn chốn ở yên
ổn, đồng thời phải mở những lớp dạy nghề thích hợp với mỗi người để họ có thể
dần dần “tự lực cánh sinh”, để họ không chỉ được ổn định cuộc sống lâu
dài, không là “gánh nặng” cho xã hội mà
còn tiếp tục góp sức cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước.
Với những
người đã hy sinh vì nền độc lập dân tộc, Hồ Chí Minh yêu cầu: “Mỗi địa phương
(thành phố, làng xã) cần xây dựng vườn hoa và bia kỷ niệm ghi sự hy sinh anh
dũng của các liệt sĩ”. Mang đậm giá trị nhân văn, lời căn dặn của Người không
chỉ ghi nhận sự hiến dâng của các anh hùng liệt sĩ đối với độc lập, tự do của
Tổ quốc, cuộc sống bình yên của nhân dân mà còn góp phần giáo dục lòng yêu
nước, truyền thống cách mạng cho muôn đời thế hệ con cháu mai sau. Đó chính là
kế thừa và phát huy giá trị truyền thống “uống nước nhớ nguồn”, đạo lý “đền ơn
đáp nghĩa” tốt đẹp của dân tộc.
Với cha
mẹ, vợ con (của thương binh, liệt sĩ) còn gặp khó khăn trong cuộc sống và lao
động, chính quyền địa phương phải “giúp đỡ họ có công việc làm ăn thích hợp,
quyết không để họ bị đói rét”. Giúp đỡ thân nhân các gia đình thương binh, liệt
sĩ như Hồ Chí Minh căn dặn không chỉ là những “hành động” đền ơn, đáp nghĩa
thiết thực mà còn thể hiện tính nhân văn trong chính sách an sinh xã hội của
Đảng và Nhà nước.
Với những
người “phụ nữ đảm đang ta đã góp phần xứng đáng trong chiến đấu và trong sản
xuất”, “Đảng và Chính phủ cần phải có kế hoạch thiết thực để bồi dưỡng, cất
nhắc và giúp đỡ để ngày thêm nhiều phụ nữ phụ trách mọi công việc kể cả công
việc lãnh đạo” và “bản thân phụ nữ thì phải cố gắng vươn lên. Đó là một cuộc
cách mạng đưa đến quyền bình đẳng thật sự cho phụ nữ”, đó cũng chính là tâm
nguyện giải phóng phụ nữ, giải phóng con người thật sự trong tư tưởng Hồ Chí
Minh.
Đối với
những nạn nhân của chế độ xã hội cũ, như trộm cắp, gái điếm, cờ bạc, buôn
lậu,v.v.., Hồ Chí Minh yêu cầu “Nhà nước phải dùng vừa giáo dục, vừa phải dùng
pháp luật để cải tạo họ, giúp họ trở nên những người lao động lương thiện”.
Với “đồng
bào nông dân đã luôn luôn hết sức trung thành với Đảng và Chính phủ ta, ra sức
góp của, góp người, vui lòng chịu đựng mọi khó khăn gian khổ”, Người đề nghị
“miễn thuế nông nghiệp 1 năm cho các hợp tác xã nông nghiệp để cho đồng bào hỉ
hả, mát dạ, mát lòng, thêm niềm phấn khởi, đẩy mạnh sản xuất”. Đề nghị của
Người mang đến cho người nông dân sự động viên to lớn. Và không chỉ dừng ở đó,
khi đề nghị thi hài mình được hỏa táng, Hồ Chí Minh cũng nhấn mạnh mục đích của
yêu cầu này chính là nhằm để “tốt về mặt vệ sinh, lại không tốn đất ruộng” của
nông dân.
Toàn bộ
phần viết về công việc tái thiết đất nước được Hồ Chí Minh bổ sung vào bản Di
chúc (tháng 5/1968). Trọn vẹn một tấm lòng vì dân, vì nước, những điều Hồ Chí Minh
dặn lại thể hiện một chương trình hành động rõ ràng, cẩn trọng để xây dựng đất
nước sau chiến tranh; trong đó, kết tinh khát vọng và tư tưởng Hồ Chí Minh về
độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Đồng thời, Di chúc thể hiện rõ việc vận
dụng sáng tạo nguyên lý chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện của Việt Nam sau
những năm dài chiến tranh; tư tưởng trọng dân, coi nhân dân là gốc, là chủ thể
của sự nghiệp xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước; chỉ dẫn và giải quyết
thấu đáo mối quan hệ giữa phát triển kinh tế và văn hoá, giữa công bằng và tiến
bộ xã hội gắn với việc chăm lo cho con người, vì con người thời kỳ cả nước cùng
đi lên chủ nghĩa xã hội trong tư tưởng Hồ Chí Minh.
Hồ Chí
Minh đã đi xa và Di chúc của Người được thấm nhuần và thực hiện cũng đã 50 năm,
nhất là trong hơn 30 năm đất nước Việt Nam tiến hành đổi mới và hội nhập quốc
tế. Có thể khẳng định rằng, thực hiện và làm theo những chỉ dẫn của Người trong
Di chúc, một đất nước Việt Nam tái thiết thành công, vươn mình và ngày một phát
triển, đã khẳng định vị thế của mình trong khu vực và trên trường quốc tế. Dù
còn không ít khó khăn và thách thức, song với quyết tâm chính trị và bản lĩnh
của một Đảng cầm quyền do Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện, với những gì đã
đạt được trong công tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng, đặc biệt là gắn thực hiện
Chỉ thị 05-CT/TW của Bộ Chính trị khóa XII về “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư
tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” với Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII về
“Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn đẩy lùi sự suy thoái về tư
tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển
hóa” trong nội bộ” theo Di chúc, nhất định Đảng Cộng sản Việt Nam sẽ lãnh đạo
nhân dân xây dựng thành công một nước Việt Nam “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh” trong tương lai./.
TS.
Văn Thị Thanh Mai, Ban Tuyên giáo Trung ương
TS.
Đinh Quang Thành, Đại học Giao thông vận tải
(Tạp
chí của Ban Tuyên giáo Trung ương)
Đang truy cập: 290
Hôm nay: 320
Tổng lượt truy cập: 1,123,637