Giá trị to lớn, ý nghĩa thời đại và sức sống trường tồn
trong bản Tuyên ngôn Độc lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh là tư tưởng về quyền con
người và quyền dân tộc. Quyền con người và quyền dân tộc trong Tuyên ngôn Độc lập
là sự kế thừa và phát triển quyền tự chủ của nhân dân Việt Nam qua hàng nghìn
năm lịch sử đấu tranh kiên cường dựng nước và giữ nước, cùng với sự kết tinh
giá trị nhân văn cao cả của nhân loại mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lĩnh hội được
qua gần 30 năm bôn ba khắp thế giới để tìm đường cứu nước.
Ngày 2 tháng 9 năm 1945, sự kiện Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản
Tuyên ngôn Độc lập tại Quảng trường Ba Đình, Hà Nội, khai sinh nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa đã đi vào lịch sử như một dấu son chói lọi nhất trong hành
trình mấy nghìn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam.
Bản Tuyên ngôn Độc lập là văn bản pháp lý quan trọng đầu
tiên khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa -Nhà nước dân chủ nhân dân đầu
tiên ở Đông Nam Á. Sự ra đời của Nhà nước Dân chủ nhân dân ở Việt Nam là bước
nhảy vọt vĩ đại trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam; đồng
thời có tác dụng to lớn, cổ vũ mạnh mẽ phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc
bị áp bức chống chủ nghĩa thực dân, đế quốc trên phạm vi toàn thế giới trong thế
kỷ XX. Đây thực sự là một áng văn bất hủ khẳng định quyền con người và quyền độc
lập, tự do thiêng liêng của dân tộc Việt
Khẳng định về quyền con người, mở đầu Tuyên ngôn Độc lập,
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trích dẫn hai đoạn văn bất hủ trong Tuyên ngôn Độc lập
của nước Mỹ năm 1776 và Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của cách mạng Pháp
năm 1789. Người đã tiến một bước xa hơn, cao hơn, sâu sắc hơn về tầm tư duy và
khẳng định về quyền dân tộc: “Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình
đẳng; dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”. Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã nêu lên sự phát triển quyền tự nhiên của con người đến quyền độc
lập, tự do của dân tộc; khẳng định sự thống nhất biện chứng giữa quyền dân tộc
và quyền con người với tư duy pháp lý của nhân loại tiến bộ, không xa lạ với những
chân lý phổ biến đã được coi là thành quả văn minh của loài người.
Trong lịch sử nhân loại, bất kỳ ở phương Đông hay phương
Tây, kể từ khi xã hội có sự phân chia thành giai cấp, có bóc lột và bị bóc lột,
có áp bức và bị áp bức thì những tư tưởng về quyền tự do, bình đẳng đã được nảy
nở từ hình thức sơ khai cho tới các trào lưu tư tưởng, lý luận. Đấu tranh cho tự
do của con người, công bằng trong xã hội là mục tiêu, lý tưởng của biết bao cuộc
khởi nghĩa, của biết bao thế hệ từ thời cổ đại cho đến ngày nay.
Sau gần 30 năm (từ 1911 - 1941) bôn ba tìm đường cứu nước,
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vượt qua 3 đại dương, đến 4 châu lục, đặt chân lên gần
30 nước để nghiên cứu, tìm hiểu đời sống, nguyện vọng, hoạt động đấu tranh
giành quyền độc lập của nhiều dân tộc. Người đã trực tiếp đọc các văn kiện
chính trị quan trọng ấy và tư tưởng về quyền tự do, bình đẳng trong các văn kiện
lịch sử đã gợi mở cho Nguyễn Ái Quốc suy nghĩ về con đường cách mạng cho dân tộc
mình. Trong tài liệu đầu tiên huấn luyện cho thế hệ thanh niên cách mạng, Người
đã dẫn ra lịch sử cuộc cách mạng Mỹ, cách mạng Pháp và rồi Người dừng lại ở
cách mạng Nga để từ đó tìm ra “Đường kách mệnh” (1927) cho dân tộc Việt Nam. Tư
tưởng về các quyền tự nhiên của con người, của dân tộc vẫn khắc sâu trong khối
óc và trái tim của một con người hết lòng vì độc lập cho Tổ quốc, tự do cho đồng
bào. Rõ ràng, nhận thức của Chủ tịch Hồ Chí Minh về quyền bình đẳng của các dân
tộc được đúc kết từ tấm lòng thiết tha với vận mệnh của dân tộc Việt Nam, từ sự
trải nghiệm qua cuộc hành trình gần 30 năm trên thế giới trước tình cảnh nhiều
dân tộc vẫn đang bị nô dịch. Trong mỗi dân tộc có nhiều quyền cá nhân, song quyền
của mỗi cá nhân không bao hàm đầy đủ quyền dân tộc. Cho nên, sự “suy rộng ra” của Người mang tính nhân văn
cao cả, có ý nghĩa quốc tế, đã mở rộng khái niệm và nâng tầm nhìn về quyền tự
nhiên của con người, của dân tộc.
Bản Tuyên ngôn Độc lập cũng đã tố cáo và lên án những tội
ác man rợ của thực dân Pháp về quyền con người, quyền dân tộc đối với đồng bào
ta về các mặt chính trị, kinh tế, văn hóa,... trong đó có tội trong 5 năm chúng
đã hai lần bán nước ta cho Nhật, từ đó nói rõ cho thế giới và phe Đồng minh biết:
“Sự thực là dân ta đã lấy lại nước Việt Nam tự tay Nhật, chứ không phải tự tay
Pháp. Pháp chạy, Nhật hàng, vua Bảo Đại thoái vị. Dân ta đã đánh đổ các xiềng
xích thực dân gần 100 năm nay để gây nên nước Việt
Bản Tuyên ngôn Độc lập còn khẳng định với thế giới cơ sở
pháp lý về quyền của dân tộc Việt
Trong bối cảnh quốc tế và Việt Nam sau chiến tranh thế giới
thứ hai, khi mà trật tự pháp lý quốc tế chỉ nhằm phục vụ quyền lợi ích kỷ của
các nước lớn tư bản, đế quốc, Tuyên ngôn Độc lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh chính
là lời tuyên bố cáo chung của chế độ thuộc địa dưới mọi hình thức, đồng thời mở
đầu thời đại trỗi dậy của các dân tộc bị áp bức, bóc lột đứng lên làm chủ vận mệnh
của mình. Chính vì vậy, nhiều nước châu Á, châu Phi và khu vực Mỹ-La tinh đã thừa
nhận đóng góp to lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh vào sự xác lập một nền công pháp
quốc tế mới, đảm bảo cho các quyền tự do, bình đẳng của con người và quyền tự
quyết, quyền bình đẳng giữa các quốc gia, dân tộc trong việc tự do lựa chọn con
đường phát triển của mình về chính trị, kinh tế, văn hóa,...
Những câu kết thúc trong bản Tuyên ngôn Độc lập chính là “lời
thề độc lập” - lời thề bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền đất nước của nhân
dân Việt
Có thể khẳng định rằng, Tuyên ngôn Độc lập là tác phẩm đầu
tiên trong lịch sử Việt Nam hội tụ được các trào lưu lịch sử Việt Nam với trào
lưu lịch sử nhân loại, làm xích lại gần nhau những quan niệm về quyền con người,
quyền tự quyết của các dân tộc trên thế giới. Tuyên ngôn Độc lập là sự kết tinh
khát vọng độc lập mấy nghìn năm của dân tộc. Đó là một mốc son chói lọi, góp phần
làm rạng rỡ nền văn hiến Việt Nam, chấm dứt chính thể quân chủ chuyên chế và chế
độ thực dân áp bức, mở ra kỷ nguyên mới dân chủ cộng hòa ở nước ta. Giá trị lớn
lao về quyền con người, quyền dân tộc trong bản Tuyên ngôn Độc lập mùa Thu năm ấy
mãi mãi trường tồn! Thực tiễn cách mạng Việt Nam 73 năm qua, kể từ khi Chủ tịch
Hồ Chí Minh công bố bản Tuyên ngôn Độc lập, những quan điểm, tư tưởng của Hồ
Chí Minh về chính trị, pháp quyền, quyền dân tộc và đặc biệt là về quyền con
người và quyền dân tộc trong Tuyên ngôn vẫn là nền tảng lý luận, tinh thần dẫn
đường cho cách mạng Việt Nam giành được những thắng lợi to lớn, vững bước đi
lên theo con đường mà Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã lựa chọn.
Thấm nhuần sâu sắc tư tưởng về quyền con người và quyền dân
tộc trong Tuyên ngôn Độc lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Từ Hiến pháp đầu tiên
năm 1946 cho đến Hiến pháp năm 2013, quyền con người và quyền dân tộc luôn được
đề cao và ngày một hoàn thiện hơn để sao cho con người được hưởng trọn vẹn nhất
những giá trị đáng có, phù hợp với xu thế thời đại và thực tiễn cuộc sống. Vì lẽ
đó, suốt 73 năm qua, Đảng ta vẫn luôn nêu cao ngọn cờ dân chủ, phát huy sức mạnh
toàn dân để tạo được khối đại đoàn kết vững chắc và đã: “Thu hút, phát huy mạnh
mẽ mọi nguồn lực và sức sáng tạo của nhân dân. Chăm lo nâng cao đời sống vật chất,
tinh thần, giải quyết tốt những vấn đề bức thiết; tăng cường quản lý phát triển
xã hội, bảo đảm an ninh xã hội, an ninh con người; bảo đảm an sinh xã hội, nâng
cao phúc lợi xã hội và giảm nghèo bền vững. Phát huy quyền làm chủ của nhân
dân, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc”.
Nguồn: http://tapchimattran.vn
Đang truy cập: 363
Hôm nay: 883
Tổng lượt truy cập: 1,126,406