Năm 1950 chúng tôi được theo Bác đi Chiến
dịch Biên giới. Ðoàn công tác theo Bác chỉ có một số người, rất gọn nhẹ.
Năm 1950 chúng tôi được theo Bác đi Chiến
dịch Biên giới. Ðoàn công tác theo Bác chỉ có một số người, rất gọn nhẹ
Tôi còn nhớ đó là các đồng chí Nhất Tiên
Phong, Triệu Hồng Thắng, bác sĩ Chánh, đồng chí Ðịnh chụp ảnh, tôi - Tổ trưởng
Tổ Bảo vệ và một số đồng chí bộ đội.
Buổi tối trước ngày đi, Bác căn dặn chúng
tôi:
- Chuyến đi này rất quan trọng. Thời gian
không thể định được, nhưng ước khoảng trên dưới một tháng. Ðường đi rất vất vả,
các chú phải cố gắng để làm tròn nhiệm vụ. Phải tuyệt đối giữ bí mật, nếu lộ ra
sẽ hại tới việc lớn. Muốn vậy, từ việc chọn đường đi, tới nơi ăn, chốn ở, giao
thiệp với dân, đều phải biết cách giữ gìn.
Chúng tôi đã chuẩn bị chu đáo cho chuyến
đi dài. Nào gạo, thực phẩm, chăn màn, dụng cụ cấp dưỡng, thức ăn khô… Ðây là
lần đầu Bác cho đi theo sáu người. Khi ra tới cửa rừng đồng chí Thắng đã dắt
ngựa chờ sẵn, mời Bác lên nhưng Bác không đồng ý. Bác bảo:
- Chúng ta có bảy người, ngựa chỉ có một
con, Bác cưỡi sao tiện.
Tôi cố nài Bác:
- Chúng cháu còn trẻ, Bác đã nhiều tuổi,
đường xa, công việc nhiều xin Bác lên ngựa cho.
Bác nói:
- Các chú đều khỏe, còn trẻ cả, để đi
đường xem các chú có theo kịp Bác không.
Cuối cùng Bác giải quyết:
- Thôi được, các chú mang theo ngựa để nó
đỡ hộ ba lô, gạo. Trên đường đi ai mệt sẽ cưỡi ngựa.
Chặng đường đi qua đèo De và Ðiềm Mạc...
Ðể quên đi nỗi mệt mỏi, vừa đi Bác vừa dạy chúng tôi đọc "Chinh phụ
ngâm", đọc Truyện Kiều. Có lúc Bác kể những kinh nghiệm hoạt động cũ của
Người cho chúng tôi nghe. Câu chuyện có sức lôi cuốn lạ thường, vui chân Bác
cháu đi được chặng đường dài. Ðêm nghỉ và ngủ lại ở chợ Mới. Bữa cơm hôm ấy
ngoài món lương khô chỉ có thêm một ít rau tàu bay luộc. Bác nói đùa:
- Rau tàu bay có khác, ăn vào nhẹ cả
người, lại có mùi dầu xăng. Chúng tôi không ai nhịn được cười.
Sáng hôm sau đi theo đường quốc lộ, hết
sức khẩn trương, cố gắng Đoàn đã vượt một chặng đường dài chừng 42km. Đến một
lán để chờ phà ở Bắc Kạn thì Đoàn nghỉ lại. Sau một ngày đi bộ vất vả và mệt,
Bác cháu nằm ngủ rất ngon lành. Bác nằm trên một ghế ghéo bằng cây, còn chúng
tôi nằm quây quần ngay trên nền lán xung quanh Bác. Khoảng 4 giờ sáng hôm sau
Bác đã dậy tập thể dục và xuống sông tắm.
Chặng đường xa, cả Đoàn có một con ngựa
nhưng Bác rất ít khi lên ngựa, mà hay để tôi dùng ngựa đi tiền trạm. Bác đi bộ
cùng anh em, hết sức dẻo dai. Để giữ bí mật Đoàn đi không ồn ào, không đón
rước. Bác đội nón, lấy khăn che râu. Đến địa điểm nghỉ lại, Bác thường lánh ra
một chỗ, khi nấu cơm xong chúng tôi ra mời Bác vào ăn.
Tối hôm đến bờ sông Bắc Kạn, tôi vào Tỉnh
ủy gửi ngựa nhưng không nói là ngựa của Bác. Sáng hôm sau, Bác cho mời đồng chí
Nông Quốc Chấn, Bí thư Tỉnh ủy Bác Kạn và đồng chí Chủ tịch tỉnh đến gặp Bác.
Bác dặn dò công việc. Sau đó Đoàn đi tiếp qua sông chừng 2km thì nghỉ lại nấu
cơm trưa. Từ đây, Đoàn được đi tiếp bằng ô tô do Bộ Quốc phòng đón. Sau mấy
ngày đi bộ, giờ được đi ô tô, mấy Bác cháu có thời gian thư giãn đôi chút. Song
bình xăng của xe chỉ chứa được 4 lít nên xe thường phải dừng lại để đổ xăng.
Theo hướng Tĩnh Túc, đêm hôm ấy xe vượt đèo Giàng đến Phia Đèn thì nghỉ lại.
Qua một chặng đường khá vất vả, chúng tôi dừng lại nấu cơm ăn. Muốn bồi dưỡng
cho Bác, chúng tôi định thịt con gà giò mang theo để nấu cháo, nhưng Bác ngăn
lại bảo đem cho đồng chí lái xe, còn Bác cháu lại ăn món rau rừng, thịt hộp.
Từ lúc lên Cao Bằng thấy dân bày rượu ra
đường bán rất nhiều, Bác đùa với chúng tôi: Dân Cao Bằng các chú không có rượu
chắc không làm được cách mạng.
Đường dài, Đoàn đi suốt đêm, qua Nguyên
Bình tới Tà Sa, xe quay về, Bác cháu lại hành quân bộ từ 4 giờ sáng. Qua Khuôn
Poóc, Khuôn Chỉ mua được một con vịt, Bác cháu dừng lại nấu cơm ăn. Dù mệt mỏi,
Đoàn vẫn hành quân tiếp qua đèo Khau Lêu, xuống thôn Hào Lịch, xã Hoàng Trung,
tới Lam Sơn nghỉ lại. Nơi đây cách quê tôi chừng 4 km.
Hôm sau qua Bế Triều, xã Ngũ Lão lên đèo
Mã Phục, tôi đi tìm Trạm liên lạc của Bộ Quốc phòng, đưa giấy đi đường do anh
Tô ký, tôi mới biết Đoàn Bác Hồ đi Chiến dịch mang mật danh “Thắng lợi”. Chặng
đường dài hành quân vất vả cứ nghĩ đến hai chữ “Thắng lợi”, tôi lại thấy quên
hết cả mệt nhọc, trong lòng thấy phấn chấn hẳn lên. Đi theo Bác, những lúc cảm
thấy mệt muốn nghỉ Bác lại động viên, kể chuyện cho nghe. Càng đi càng thấy
thêm yêu mến quê hương. Bác nói:
- Cao Bằng dất rộng, nhiều mỏ, công dân
cần cù, chịu khó. Sau này, đuổi hết giặc nhân dân chịu khó về xây dựng quê
hương thêm giàu đẹp.
Rồi Bác dặn:
- Từ đây tới Ban Chỉ huy mặt trận, đường
tuy không dài lắm nhưng phải bảo đảm bí mật cao hơn, vì giặc tung do thám để dò
tìm lực lượng ta, nhiều chặng chúng có thể phục kích, bắt cán bộ. Các chú phải
cảnh giác, sãn sàng chiến đấu cao hơn.
Hôm ấy ra đi trời lại đổ mưa, đường trơn
như mỡ, khi Đoàn lên tới nơi thì được anh Tô, anh Trần Đăng Ninh đã lên đây
trước rồi… Tôi vào báo tin này cho các anh biết Bác đã lên, địa điểm Bác dừng
là Tả Phây Nưa, Tả Phẩy Tẩu, thuộc huyện Quảng Uyên, cách thị trấn Quảng Uyên
chừng 2 hoặc 3km. Anh Ninh đi vắng, anh Lê, Thư ký của anh Ninh nhận diện.
Sau khi liên lạc được với Ban Chỉ huy
Chiến dịch, Bác ở lại làm việc phê chuẩn quyết tâm thư của Bộ Chỉ huy, gặp gỡ
và đi thăm động viên các đơn vị. Ở Quảng Uyên hai ngày, Bác đi bộ tiếp xuống
Phục Hòa, về gần Đông Khê, vị trí tiền phương của Ban Chỉ huy Chiến dịch, gặp
anh em công binh đang làm cầu phao qua sông Bằng Giang, Bác khen:
- Các chú công binh khá lắm.
Hôm ấy sau khi làm việc với anh Văn, Bác
nghỉ lại ở xóm Nà Lạn, xã Đức Long, Đông Khê, trong một cái lán dựng sẵn. Chiến
lán nhỏ tạm đủ để Bác làm việc và ở, Bác dặn:
- Chúng ta sẽ ở đay một thời gian nên công
tác giữ bí mật, giúp dân là rất cần.
Bác chỉ dẫn tỉ mỉ về bí danh của Đoàn công
tác đặc biệt, cách tránh lửa khói ban ngày để phòng máy bay địch, nhất là cách
tránh làm chết cỏ, làm mất dấu trên lối đi. Ở lâu, việc gì Bác cũng đem kinh
nghiệm của Người ra chỉ bảo cho chúng tôi.
Sáng hôm sau, tiếng súng mở màn Chiến dịch
đã nổ từ sáng sớm, đó là ngày 16/9/1950, Bác lên núi đá Ngườm quan sát quân ta
đánh vị trí Đông Khê. Tôi cũng được theo Bác đi lên quan sát trận đánh.
Đứng trên ngọn núi ở vị trí quan sát có
thể thấy rõ toàn bộ các cứ điểm của địch, giống như ta đứng trước một cái sa
bàn lớn. Đây là lần đầu tôi được chứng kiến một trận đánh lớn mà địch huy động
nhiều máy bay tham chiến.
Khoảng 10 giờ sáng, quân ta lấy được ba
đồn phìa Khóa, Yên Ngựa, Cam Phầy, mở đường ống phía Đông Nam tấn công vào đồn
chính Đông Khê. Tin thắng trận liên tục được báo về nơi Bác. Tiếng súng, tiếng
bom chuyển cả một vùng khói lửa bốc lên ngùn ngụt.
Sau hai ngày đêm quân ta chiếm được toàn
bộ vị trí Đông Khê. Bộ đội truy kích bắt được rất nhiều tù binh đưa về Đức Long.
Sau khi bàn với Ban Chỉ huy Chiến dịch về
chủ trương phát triển chiến thắng. Bác đi thăm thương binh tại bệnh viện dã
chiến. Bác rất xúc động, không cầm được nước mắt nhưng cố nén để thăm hỏi anh
em. Anh em thương bệnh binh cũng rất phấn khởi bởi thấy Bác già rồi mà vẫn ra
mặt trận chỉ huy Chiến dịch. Trước khi về Bác đã tặng đồng chí thương binh nặng
chiếc áo khoác của mình. Đi thăm Trại tù binh, Bác đóng giả một cụ già nông dân
và Người cũng lại cởi tấm áo ngoài của mình cho một Đại úy thầy thuốc. Khi về
có đồng chí ngạc nhiên hỏi tôi:
- Sao
Bác lại cho nó?
Thấy nó bị lạnh, là tù binh nhưng là một
bác sỹ, nó biết lẽ phải, lại đang bị thương.
Khi ở Thất Khê Bác dặn tôi về Cao Bằng
trước. Tôi mượn được chiếc xe đạp hỏng, dắt xe về thị xã, tôi tranh thủ về thăm
nhà. Bố mẹ tôi mừng quá, ôm lấy tôi khóc rưng rức. Năm giờ sáng hôm sau tôi ra
tới thị xã gặp được anh Hồng Kỳ, Chủ tịch tỉnh, cũng vừa kịp đón Bác đến. Trưa
hôm đó Bác lên pháo đài Cao Bằng ăn cơm. Buổi tối Bác về nghỉ ở Lam Sơn và làm
việc tại đây hai ngày.
Chiến dịch thắng lợi, kết thúc Chiến đi
lịch sử như dự định của Bác. Người trở về Tân Trào cũng là lúc nhận được tin
vui từ mặt trận báo về.
Nguồn: http://radio.voh.com.vn
Đang truy cập: 598
Hôm nay: 269
Tổng lượt truy cập: 1,128,417