Trong cuộc đời hoạt động của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh
luôn chú trọng phong cách diễn đạt, coi đó là công cụ đắc lực không thể thiếu để
tuyên truyền, giác ngộ ý thức cách mạng, củng cố niềm tin, nâng cao nhận thức của
cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân. Phong cách diễn đạt trong nói và viết
của Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn để lại những ấn tượng cho những người từng được gặp
cũng như đã đọc tác phẩm của Bác. Giao tiếp với mỗi đối tượng khác nhau, Người
có một phong cách ứng xử ở tầm nghệ thuật gần như hoàn thiện, làm cho mọi người
có thể cảm nhận đầy đủ cái đẹp của cuộc sống và sự cao thượng trong nhân cách
con người, từ đó, tạo nên sức cuốn hút mạnh mẽ đối với người nghe, người đọc,
dù đối tượng đó là nông dân, công nhân, những người lao động bình thường, đến
những trí thức, văn nghệ sĩ, chính khách, những chức sắc tôn giáo…
Cán bộ, phóng viên, biên tập viên, nhân viên Báo Quảng Nam và Báo Quảng Trị
nghe thuyết minh tại Bảo tàng Mẹ Việt Nam anh hùng, xã Tam Phú, Tam Kỳ, Quảng Nam
Đối
với Chủ tịch Hồ Chí Minh, nói và viết là quá trình tác động đến người nghe, người
đọc, nhằm thuyết phục, cảm hóa, nâng cao nhận thức, thay đổi quan niệm và hành
vi, hướng mọi người vào các hoạt động thực tiễn cách mạng phù hợp xu hướng tiến
bộ của xã hội, của thời đại. Trong tính đa dạng, phong phú của những bài nói,
bài viết của Chủ tịch Hồ Chí Minh có thể thấy những nét chung, cơ bản nhất, đó
là:
Thứ nhất, cách nói, cách viết giản dị, cụ thể, thiết thực.
Chủ tịch Hồ Chí Minh là một lãnh tụ thiên tài, người thầy của nền báo chí cách
mạng Việt
Thứ hai, trong phong cách diễn đạt của Chủ tịch Hồ Chí Minh
mang đậm tính chân thực, cô đọng, hàm súc, trong sáng và sinh động, có lượng
thông tin cao. Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn chú trọng tính chân thực trong mỗi bài
nói, bài viết của mình đối với từng đối tượng. Khi nói, viết về một vấn đề gì
cho một đối tượng cụ thể, Bác luôn phản ảnh đúng sự thật, bảo đảm tính chính
xác, tính chân thực của các sự kiện, vấn đề nêu ra. Bác phê phán tính thiếu
chính xác, thiếu chân thực, thói giả dối khi viết, khi nói với quần chúng nhân
dân của một số cán bộ, đảng viên. Bác yêu cầu: “Báo cáo phải thật thà, gọn
gàng, rõ ràng, thiết thực. Điều gì biết thì nói biết, không biết thì nói không
biết. Không nên nói ẩu”, “Chưa điều tra, chưa nghiên cứu, chưa biết rõ, chớ
nói, chớ viết”.
Những thông tin trong bài nói, bài viết của Bác Hồ luôn có
tính xác thực cao, có nhiều số liệu thực tế. Bác luôn chọn lọc từ ngữ trong quá
trình sử dụng để sao cho “lời ít nhưng ý nhiều”, đặc biệt ưu tiên lựa chọn và sử
dụng những từ thuần Việt nhằm không ngừng làm trong sáng tiếng nói của dân tộc.
Trong nhiều bài nói và bài viết trước đồng bào, đồng chí, Bác Hồ thường trình
bày thẳng vào vấn đề bằng phương pháp phát vấn (tức là đặt câu hỏi) như: “Vì
sao chúng ta vào Đảng? Phải chăng để thăng quan, phát tài?” Sau đó, Bác Hồ trả
lời và giải thích ngắn gọn rằng: “Không phải!... Chúng ta vào Đảng là để hết
lòng hết sức phục vụ giai cấp, phục vụ nhân dân, làm tròn nhiệm vụ của người đảng
viên”. Đây là nhiệm vụ rất to lớn và nặng nề. Vì vậy, Bác căn dặn những ai nếu
sợ rằng mình không phục vụ được nhân dân, phục vụ được cách mạng thì đừng vào
hoặc khoan hãy vào Đảng. Hay như bài “Dân vận”, Bác cũng đặt vấn đề: Dân vận
là gì? Ai phụ trách dân vận? Dân vận phải thế nào? Cuối bài báo, Bác kết luận:
Lực lượng của dân rất to. Việc dân vận rất quan trọng. Dân vận kém thì việc gì
cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng thành công…
Bác Hồ thường viết ngắn, có khi rất ngắn: “Pháp chạy, Nhật
hàng, vua Bảo Đại thoái vị”, chỉ 9 chữ mà khái quát được cả ba giai đoạn đầy biến
động của đất nước. Nhiều câu đúc kết lại như châm ngôn: “Nước lấy dân làm gốc”,
“Không có gì quý hơn độc lập, tự do”, “Vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây/
Vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người”… Bác thường nhắc nhở và khuyên mọi
người phải chữa cho hết bệnh nói dài, viết rỗng. Bất kỳ làm việc gì cũng phải
có chừng mực, viết và nói cũng vậy. Chớ ham dùng chữ, bệnh sính chữ nước ngoài,
những chữ mà không biết rõ thì chớ dùng, những chữ mà tiếng ta có thì phải dùng
tiếng ta.
Thứ ba, cách nói, cách viết của Bác sinh động, độc đáo, đa
dạng về bút pháp, giàu hình ảnh, đa giọng điệu, ngôn từ ngắn gọn, súc tích, gắn
với những hình ảnh, sự ví von, so sánh cụ thể. Trong thơ ca cũng như trong truyện
và ký, trong những bài chính luận, thường xuyên ta đón nhận ở Bác tiếng nói xúc
cảm của một trí tuệ tuyệt vời, chính vì lẽ đó mà chất thơ và những biện pháp
thường dùng trong thơ văn của Bác không chỉ bắt gặp trong “Nhật ký trong tù” mà
còn thấy trong những lời kêu gọi… Còn khi nói với các tầng lớp nhân dân, hoặc
viết những bức thư cho nhiều cá nhân thuộc đủ các thành phần, mọi lứa tuổi, Bác
lại dùng những lời bình dị, chứa đựng “muôn vàn tình thân yêu”, một tấm lòng
nhân hậu bao la, thông qua ngôn từ mang tính gợi cảm cao để hướng quần chúng về
cội nguồn nhằm tăng cường mối đoàn kết dân tộc...
Khi nói, khi viết, Bác Hồ thường kết hợp với kể chuyện, đan
xen những câu thơ, câu ca dao có vần điệu, làm cho bài nói, bài viết trở nên
sinh động, gần gũi với lối cảm, lối nghĩ của quần chúng. Bác dùng hình ảnh “con
đỉa hai vòi” để nói về bản chất của chủ nghĩa đế quốc; ví “Lý luận cũng như cái
tên (hoặc viên đạn). Thực hành cũng như cái đích để bắn”; “Có kinh nghiệm mà
không có lý luận, cũng như một mắt sáng, một mắt mờ”; người đọc nhiều lý luận
mà không biết đem thực hành, vận dụng chỉ là “cái hòm đựng sách”...
Thứ tư, phong cách diễn đạt luôn biến hóa, nhất quán mà đa
dạng, lập luận chặt chẽ, lý lẽ đanh thép, luận điểm, luận cứ thuyết phục, giàu
tính luận chiến dù đó là các bức thư, lời kêu gọi hay bài báo… Trong cách nói
và viết, Bác Hồ kết hợp hài hòa giữa yếu tố dân gian và bác học, cổ điển và hiện
đại, giữa phong cách phương Đông và phương Tây.
Những lời khuyên và chỉ bảo của Bác cũng như phong cách nói
và viết đã vượt qua giới hạn của kỹ năng sử dụng ngôn ngữ đơn thuần, trở thành
một nghệ thuật giàu khả năng chinh phục, thấm sâu vào lòng người đọc, người
nghe. Đây chính là những bài học quý báu mà Bác đã để lại cho các thế hệ cán bộ,
đảng viên chúng ta, nhất là những người làm công tác tư tưởng, công tác
tuyên giáo của Đảng. Bởi lẽ, phong cách diễn đạt nói và viết là vấn đề thường
xuyên gắn liền với hoạt động hằng ngày của mỗi người chúng ta, là hai kỹ năng
quan trọng của con người. Muốn làm chủ quá trình tư duy và nâng cao hiệu quả
giao tiếp, mỗi người chúng ta đều phải trau dồi khả năng nói và viết. Hơn nữa,
đối với cán bộ, đảng viên, người lãnh đạo, kỹ năng nói và viết càng cần thiết
hơn. Người lãnh đạo có ý tưởng tốt mà không làm cho nhân dân hiểu được thì sẽ
gặp khó khăn trong điều hành, quản lý, không triển khai được kế hoạch và không
tạo được sức mạnh tập thể thực hiện kế hoạch trong thực tiễn. Mặt khác, mỗi cán
bộ, đảng viên đều có trách nhiệm tuyên truyền, phổ biến chủ trương, đường lối của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đến với nhân dân. Nếu không có kỹ năng
diễn đạt thì công tác vận động nhân dân thực hiện đường lối, chủ trương chính
sách đó sẽ rất hạn chế.
Vì vậy, việc nghiên cứu học tập phong cách diễn đạt của Chủ tịch Hồ Chí Minh để xây dựng phong cách diễn đạt, hoàn thiện kỹ năng giao tiếp đối với cán bộ, đảng viên là biện pháp thiết thực để vận dụng vào thực tiễn công tác và cuộc sống, góp phần hoàn thành tốt nhiệm vụ chính trị được giao trong giai đoạn hiện nay.
Từ Quang Hóa - báo Quảng Trị
- Video bài nói chuyện với chủ đề “Xây dựng phong cách, tác phong công tác của người đứng đầu, của cán bộ, đảng viên trong học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”
- Bài nói chuyện của GS.TS Hoàng Chí Bảo về “Những vấn đề cơ bản, cốt lõi về tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”
- Chỉ thị số 05-CT/TW của Bộ Chính trị về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh.
Đang truy cập: 280
Hôm nay: 527
Tổng lượt truy cập: 1,135,254