Đề cương tuyên truyền kỷ niệm 130 năm ngày sinh cụ Bùi Bằng Đoàn, Trưởng ban Thường trực Quốc hội (19/9/1889 – 19/9/2019)
Ban Tuyên giáo Trung ương đã ban hành Đề cương tuyên truyền
kỷ niệm 130 năm ngày sinh cụ Bùi Bằng Đoàn, Trưởng ban Thường trực Quốc hội
(19/9/1889 – 19/9/2019). Ban Tuyên giáo Trung ương trân trọng giới thiệu toàn văn Đề cương tuyên truyền.

I. TÓM TẮT TIỂU SỬ -
QUÁ TRÌNH HOẠT ĐỘNG CỦA CỤ BÙI BẰNG ĐOÀN
Cụ Bùi Bằng Đoàn sinh ngày 19/9/1889 trong một gia đình nhà
nho tại làng Liên Bạt, huyện Ứng Hòa, tỉnh Hà Đông (nay thuộc thành phố Hà Nội)
– làng quê có truyền thống văn hiến, với những danh nhân khoa bảng được ghi
trong sử sách. Ông nội là Tiến sĩ Bùi Tuấn, hàm Thái tử Thiếu bảo, từng là giám
khảo các kỳ thi Hương, giữ chức Tả Tham tri Bộ Binh kiêm Tổng đốc tỉnh Bắc
Ninh. Cha là Bùi Tập từng giữ chức Tuần phủ tỉnh Hưng Hóa (một tỉnh cũ dưới thời
Pháp thuộc). Do cha mẹ đều mất sớm, ngay từ nhỏ, Bùi Bằng Đoàn được người chú
dượng là Dương Lâm (tức cụ Thiếu bảo Vân Đình lúc đó làm Tham tri Nha Kinh lược
Bắc Kỳ) đưa về nuôi dưỡng và dạy học chữ Hán.
Năm Bính Ngọ (1906), dưới triều Vua Thành Thái, tại khoa
thi Hương trường Hà Nam, Bùi Bằng Đoàn đỗ cử nhân. Cùng năm ấy, phong trào Tây
học rộ lên, Bùi Bằng Đoàn tự khai thêm 3 tuổi để được tuyển sinh vào trường Hậu
Bổ -trường chuyên dạy và học bằng tiếng Pháp.
Năm 1911, Bùi Bằng Đoàn tốt nghiệp trường Hậu Bổ, Hà Nội,
được bổ làm Tri huyện, sau đó làm Tri phủ Xuân Trường (tỉnh Nam Định), Án sát tỉnh
Bắc Ninh; Tuần phủ các tỉnh Cao Bằng, Ninh Bình. Năm 1933, Cụ được nhà Nguyễn
tuyên triệu vào Triều đình Huế làm việc và được giữ chức Thượng thư Ngự Tiền,
Văn phòng Nam Triều (1934), rồi làm Thượng thư bộ Hình (Bộ Tư pháp); sung Cơ mật
viện Đại thần, hàm Chánh nhị phẩm và được thăng Hiệp tá Đại học sĩ hàm Tùng nhất
phẩm. Sau đó ít lâu được phòng hàm Chánh phẩm.
Năm 1944, Bùi Bằng Đoàn được nhà Vua ban tặng hàm Thái tử
Thiếu bảo, và tham gia Viện Cơ mật của Triều đình Huế.
Tháng 3/1945, Nhật đảo chính Pháp, Vua Bảo Đại xuống chiếu
thành lập Chính phủ, Trần Trọng Kim được đưa lên làm Thủ tướng Chính phủ. Thượng thư bộ Hình Bùi Bằng Đoàn đã từ
chối tham gia chính phủ bù nhìn, cáo quan về sống ở Hà Đông, nhưng Chính phủ
Nam Triều đã mời ở lại và giao giữ chức Chánh nhất Tòa Thượng thẩm ở Hà Nội.
Sau Cách mạng tháng Tám thành công, ngày 17/11/1945, Chủ tịch
Hồ Chí Minh mời cụ Bùi Bằng Đoàn tham gia Ban Cố vấn Chủ tịch nước, thành viên Ủy
ban Nghiên cứu kế hoạch kiến thiết đất nước. Theo Sắc lệnh số 80/SL số
31/12/1945, Cụ được cử làm Trưởng ban Thanh tra đặc biệt của Chính phủ Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa.
Ngày 31/12/1945, Ủy ban nghiên cứu kế hoạch kiến thiết được
thành lập, gồm 40 nhân sỹ, trí thức, các bộ trưởng và thứ trưởng trong đó cụ
Bùi Bằng Đoàn là thành viên.
Trong cuộc Tổng Tuyển cử ngày 6/1/1946, Cụ trúng cử đại biểu
Quốc hội khóa I của tỉnh Hà Đông (cũ), rồi được bầu làm ủy viên chính thức Ban
Thường trực Quốc hội.
Tại kỳ họp thứ 2 của Quốc hội (28/10/1946 - 9/11/1946) Cụ
được bầu làm Trưởng ban Thường trực Quốc hội.
Ngày 31/12/1946, Chính phủ ra Sắc lệnh số 5/SL thành lập Ủy
ban Tản cư và Di cư Trung ương, Ủy ban tản cư của các tỉnh, phủ, huyện. Ngày
22/01/1947, Chủ tịch Chính phủ ký Sắc lệnh số 8/SL cử các thành viên Ủy ban Tản
cư và Di cư, gồm 11 thành viên, cụ Bùi Bằng Đoàn được cử giữ chức Chủ tịch Ủy
ban.
Năm 1947-1948, cụ Bùi Bằng Đoàn hoạt động ở chiến khu Việt
Bắc. Tháng 8/1948, vì bị bệnh nặng, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra lệnh đưa Cụ về Liên
khu 3 chữa trị. Ngày 13/4/1955, Cụ qua đời tại Hà Nội, hưởng thọ 66 tuổi. Do những
công lao, cống hiến to lớn đối với dân tộc, cụ Bùi Bằng Đoàn đã được Chủ tịch
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tặng thưởng Huân chương Độc lập hạng nhất, Huân
chương Kháng chiến chống Pháp hạng nhất.
II. CÔNG LAO VÀ CỐNG HIẾN TO LỚN CỦA CỤ
BÙI BẰNG ĐOÀN ĐỐI VỚI SỰ NGHIỆP CÁCH MẠNG CỦA ĐẢNG VÀ ĐẤT NƯỚC
1. Cụ Bùi Bằng Đoàn
– Một tấm gương về thanh liêm, chính trực, mẫn cán, một lòng đi theo cách mạng
1.1. Trước Cách mạng Tháng Tám, làm quan ở triều đại phong
kiến, cụ Bùi Bằng Đoàn nổi tiếng là vị quan thanh liêm, chính trực, thương dân
- Khi làm Tri phủ Xuân Trường (tỉnh Nam Định), cụ Bùi Bằng
Đoàn đã đề xuất và tổ chức thực hiện việc đắp đê Bạch Long ngăn nước mặn - một
công trình trị thủy lớn, có ý nghĩa vô cùng quan trọng về dân sinh và kinh tế
nông nghiệp cho nhân dân địa phương. Nhờ con đê Bạch Long mà cả một vùng đất
đai rộng lớn, phì nhiêu được tạo lập, những người nông dân trồng lúa, trồng dâu
ở địa phương dần dần có cuộc sống ổn định. Ghi nhớ công đức của Cụ, nhân dân địa
phương đã làm lễ tế sống vị phụ mẫu chi dân trẻ tuổi ngay nơi nhận chức.
- Khi đang làm Tri phủ Nghĩa Hưng, nhờ tinh thông Pháp văn
cụ Bùi Bằng Đoàn được mời lên Hà Nội làm thông ngôn cho phiên tòa đại hình xử vụ
án cụ Phan Bội Châu. Với tính cách cương trực, bênh vực lẽ phải, cụ Bùi Bằng
Đoàn đã phiên dịch rõ ràng, trung thực những lời nói, lý lẽ đanh thép của cụ
Phan Bội Châu để rồi sau đó tòa án không khép được cụ Phan vào án chung thân mà
giảm xuống hình thức “an trí ở Huế”.
- Năm 1925 trước việc báo chí phản ánh cảnh phu điền ở Nam
Kỳ bị bóc lột dã man, Chính phủ Nam Triều đã cử Bùi Bằng Đoàn vào thanh tra các
đồn điền cao su của Pháp tại Nam Kỳ. Là người công minh, liêm khiết, mẫn cán và
tác phong làm việc cẩn trọng, khoa học, cụ Bùi Bằng Đoàn đã tiến hành điều tra
trực tiếp, thấu đáo tại 45 đơn vị đồn điền cao su thuộc các tỉnh: Biên Hòa, Bà
Rịa, Thủ Dầu Một, Tây Ninh, Chợ Lớn và Gia Định. Nội dung điều tra tập trung chủ
yếu vào việc tổ chức sản xuất, sử dụng lao động, nhất là người lao động ở các tỉnh
Bắc Kỳ vào và đời sống người lao động thông qua tiền lương, điều kiện ăn ở,
sinh hoạt, số giờ lao động trong ngày, số tiền lãi của chủ đồn điền… Kết thúc
cuộc điều tra, Cụ đã viết báo cáo, kiến nghị dày 100 trang bằng tiếng Pháp nêu
trung thực, khách quan, công minh và đầy đủ những điều vô lý trong chính sách đối
với phu đồn điền. Nhờ đó đã được nhà đương cục lúc bấy giờ chấp nhận giảm thiểu
những chế độ hà khắc đối với công nhân đồn điền cao su thời đó.
- Khi làm Án sát tỉnh Bắc Ninh, Cụ được mời tham dự phiên
tòa Đề hình xét xử đồng chí Nguyễn Văn Cừ, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Đông
Dương. Khâm phục tinh thần cách mạng của đồng chí Nguyễn Văn Cừ, nên khi nghị
án thực dân Pháp đã định án tử nhưng Cụ đã tìm mọi cách để giảm tội tử hình xuống
khổ sai đày đi Côn Đảo.
- Năm 1933, cụ Bùi Bằng Đoàn được bổ nhiệm làm Tuần phủ
Ninh Bình, sau đó, khi Phạm Quỳnh tổ chức lại nội các, Cụ được bổ nhiệm làm Thượng
thư bộ Hình.
Trên cương vị Thượng thư bộ Hình, cụ Bùi Bằng Đoàn đã có
công lớn trong việc cải cách tư pháp, sửa đổi luật pháp, bãi bỏ nhiều quy định
lỗi thời của hệ thống tư pháp cổ xưa trên 17 tỉnh, đạo thuộc Trung Kỳ. Đồng thời,
Cụ đã tấu trình và được nhà Vua chấp thuận việc biên soạn, ban hành một số luật
mới có nội dung tiến bộ, tổ chức các tòa án và quy định cơ chế tư pháp tân tiến,
lựa chọn và đào tạo thẩm phán và đội ngũ nhân viên chuyên môn nghiệp vụ chuyên
trách… Sau này nhiều người được tiếp tục phục vụ trong các cơ quan pháp luật của
cách mạng.
Trong thời gian làm quan đại thần trong Triều Nguyễn ở Huế,
Cụ nổi tiếng là vị quan đức độ, thanh liêm, chính chực, chăm dân. Cụ được nhà
Vua sủng ái, các quan trong triều kính trọng, nhân viên và các quan chức dưới
quyền ngưỡng mộ, được nhân dân kính trọng, tin cậy.
1.2. Cách mạng Tháng Tám thành công, tháng 11/1945, Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã tự tay đánh máy bức thư trân trọng mời Cụ tham gia việc nước. Từ
một vị quan thanh liêm, chính trực làm việc dưới triều đình phong kiến, nhận thức
được trách nhiệm của mình với Tổ quốc, khâm phục, kính trọng tài đức, lý tưởng
lớn lao, trong sáng và tinh thần, nghị lực đấu tranh vì độc lập dân tộc, tự do,
hạnh phúc cho nhân dân Việt Nam của Chủ tịch Hồ Chí Minh và tin tưởng vào vận mệnh
nước nhà, cụ Bùi Bằng Đoàn đã nhận lời tham gia Uỷ ban kiến thiết quốc gia;
tham gia Ban Cố vấn riêng của Chủ tịch Hồ Chí Minh; rồi trở thành Trưởng ban
Thanh tra đặc biệt của Chính phủ, Trưởng ban Thường trực Quốc hội… Trên cương vị
và trọng trách nào do Chủ tịch Hồ Chí Minh và Chính phủ giao, cụ Bùi Bằng Đoàn
cũng thể hiện là một người thanh liêm, chính trực, một lòng đi theo cách mạng.
Khi ở vị trí Trưởng ban Thanh tra đặc biệt của Chính phủ,
hoạt động chỉ có hai người nhưng với kinh nghiệm phong phú, cộng với sự giúp đỡ
của Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh, cụ Bùi Bằng Đoàn đã tham mưu kịp thời chấn
chỉnh những bất cập trong hoạt động của bộ máy nhà nước, giúp giữ nghiêm kỷ
cương phép nước, chấn chỉnh đội ngũ cán bộ trong cơ quan chính quyền. Đặc biệt
Cụ đã tham mưu cho Chính phủ ban hành những sắc lệnh có tác động tích cực đến đời
sống xã hội, như Sắc lệnh số 40/SL về việc Bảo vệ tự do cá nhân do Chủ tịch Hồ
Chí Minh ký ngày 29/3/1946. Đây là sắc lệnh đầu tiên quy định cụ thể những trường
hợp bắt người, giam cứu, nơi giam cứu, cấm tra tấn để lấy cung, bảo vệ quyền tự
do của mỗi công dân Việt Nam; giúp cho Ban Thanh tra đặc biệt giải quyết các vụ
việc oan trái được nhanh chóng.
Không những vậy, từ công tác thanh tra, Cụ đã tổng kết thực
tiễn, đặt những viên gạch đầu tiên xây dựng tư tưởng thanh tra nhân dân, thanh
tra cách mạng Việt Nam sau này.
2. Cụ Bùi Bằng Đoàn - Trưởng ban Thường trực Quốc hội, có
công lao, đóng góp to lớn đối với hoạt động lập pháp của Quốc hội và trong cuộc
kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược
- Ngày 6/1/1946, cuộc bầu cử Quốc hội đầu tiên được tổ chức
trong phạm vi toàn quốc, với sự tham gia của tất cả các đảng phái trong nước,
thu hút mọi tầng lớp trong xã hội. Cụ Bùi Bằng Đoàn với chức danh cố vấn của Chủ
tịch Hồ Chí Minh, Trưởng Ban Thanh tra đặc biệt của Chính phủ lâm thời nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hoà, được Hồ Chủ tịch giới thiệu ra ứng cử đại biểu Quốc hội
khoá I và đã trúng cử đại biểu của tỉnh Hà Đông (cũ) với số phiếu bầu rất cao.
Tại kỳ họp thứ nhất Quốc hội khoá I nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, cụ Bùi Bằng Đoàn được bầu
làm Ủy viên chính thức Ban Thường trực Quốc hội. Lúc này nhiệm vụ chính của Cụ
vẫn là ở Ban Thanh tra đặc biệt của Chính phủ nhưng Cụ đã tham gia một số hoạt
động đối ngoại của Chính phủ, như tham gia đàm phán với Chính phủ Pháp sau khi
ký Hiệp ước sơ bộ ngày 6/3/1946.
- Tại kỳ họp thứ hai Quốc hội khoá I (tháng 11-1946), Cụ được
bầu làm Trưởng Ban Thường trực Quốc hội. Trên cương vị Trưởng ban Thường trực
Quốc hội, Cụ đã phát huy vai trò, trách nhiệm và những đóng góp cho hoạt động lập
pháp, đặc biệt là việc tập hợp lực lượng đoàn kết toàn dân, kháng chiến chống
Pháp:
Ngày 17/12/1946, tại Hà Nội, Hội đồng Chính phủ họp có sự
tham gia của Trưởng ban Thường trực Quốc hội Bùi Bằng Đoàn. Đây là cuộc họp rất
quan trọng, nghe đồng chí Bộ trưởng Quốc phòng Võ Nguyên Giáp báo cáo tình hình
quân sự diễn ra ở Hải Phòng, Lạng Sơn, Đà Nẵng và một số nơi khác; Chủ tịch Hồ
Chí Minh báo cáo thống nhất quyết định phát động cuộc kháng chiến trong cả nước.
Sau cuộc họp này, ngày 18 và 19/12/1946 tại Vạn Phúc, Hà Đông, Ban Thường vụ
Trung ương Đảng họp mở rộng dưới sự chủ trì của Chủ tịch Hồ Chí Minh, quyết định
phát động cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược trên phạm vi cả nước và
ban bố Chỉ thị kháng chiến của Đảng. Đêm 19/12/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra “Lời
kêu gọi toàn quốc kháng chiến”.
- Kháng chiến toàn quốc diễn ra, Trung ương Đảng, Quốc hội,
Chính phủ bí mật rút khỏi Hà Nội. Để sự lãnh đạo điều hành được tập trung thống
nhất, Quốc hội đã giao quyền tập trung vào Chính phủ và có sự tham gia tích cực,
thường xuyên của Ban Thường trực Quốc hội. Tuy nhiên, do tình hình ngày càng cấp
bách và khó khăn, vì vậy thực hiện sự chỉ đạo của Ban Thường trực Quốc hội, chỉ
có Trưởng ban Thường trực Quốc hội Bùi Bằng Đoàn ở lại cùng với Chính phủ thực
hiện nhiệm vụ trên.
Trên cương vị Trưởng Ban Thường trực Quốc hội, cụ Bùi Bằng
Đoàn đã tham dự các cuộc họp của Hội đồng Chính phủ, tham gia bàn bạc góp ý kiến
các chủ trương, chính sách lớn của Chính phủ và tham gia giám sát các công việc
của Chính phủ thực hiện công cuộc kháng chiến kiến quốc. Với tinh thần trách
nhiệm cao, Cụ đã tham gia đóng góp cải tổ nhân sự của Chính phủ năm 1947, chỉ đạo
các đoàn đại biểu Quốc hội địa phương, lấy nguyện vọng nhân dân góp ý cho Quốc
hội và Chính phủ trong lãnh đạo kháng chiến. Cụ đã thay mặt Quốc hội tham dự
các sự kiện trọng đại của đất nước.
Ngoài các hoạt động đối nội, lập pháp, Cụ Bùi Bằng Đoàn còn
tích cực tham gia các hoạt động đối ngoại, thường xuyên trả lời phỏng vấn báo
chí, đài phát thanh trong và ngoài nước về một số vấn đề trọng đại của đất nước,
về chủ quyền của Việt Nam trong thời gian trước và sau khi hai đoàn đại biểu Việt
Nam và Pháp ký Hiệp ước 6/3/1946 tại Đà Lạt.
- Hiệp định Giơnevơ được ký kết, ngày 10/10/1954 Thủ đô Hà
Nội hoàn toàn giải phóng, Cụ trở về Hà Nội. Thời gian này công việc của Quốc hội
cũng như các cơ quan Trung ương rất bộn bề. Với tư cách là Trưởng Ban Thường trực
Quốc hội Cụ đã có nhiều ý kiến đóng góp, cùng Ban Thường trực Quốc hội trong việc
tiến hành ổn định tổ chức và hoạt động của Quốc hội; xem xét việc chuẩn bị
thông qua nhiều văn bản pháp luật của Chính phủ nhằm bảo đảm thành công trong
công việc kiến quốc theo chủ trương, đường lối của Đảng và nguyện vọng của toàn
dân.
***
Từ Thượng thư bộ Hình Nam triều nổi tiếng thanh liêm, chính
trực, cụ Bùi Bằng Đoàn đã tham gia chính quyền cách mạng một cách tự nguyện và
một lòng đi theo chính quyền cách mạng. Tấm lòng tận trung với nước, tận hiếu với
dân của cụ Bùi Bằng Đoàn là một tấm gương sáng để chúng ta kính trọng và noi
theo.
Kỷ niệm 130 năm Ngày sinh cụ Bùi Bằng Đoàn là dịp để chúng
ta ôn lại cuộc đời, sự nghiệp và tôn vinh công lao, cống hiến to lớn của Cụ đối
với đất nước; qua đó giáo dục truyền thống yêu nước, niềm tự hào, tự tôn đất nước
và tinh thần đại đoàn kết toàn dân tộc; cổ vũ, động viên các tầng lớp nhân dân
tích cực học tập, lao động, công tác và chiến đấu góp phần thực hiện thắng lợi
các mục tiêu, nhiệm vụ xây dựng, phát triển và bảo vệ đất nước.
Noi gương cụ Bùi Bằng Đoàn, toàn Đảng, toàn dân và toàn
quân ta nỗ lực phấn đấu, quyết tâm thực hiện thắng lợi Nghị quyết đại hội Đảng
bộ các cấp và Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng.
BAN TUYÊN GIÁO TRUNG ƯƠNG