Hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam: Vài đánh giá và trao đổi
Hội nhập kinh
tế quốc tế là một chủ trương nhất quán và là nội dung trọng tâm trong chính
sách đối ngoại và hợp tác kinh tế quốc tế của Đảng ta trong quá trình đổi mới
đất nước. Thực hiện chủ trương này, nước ta đã từng bước, chủ động hội nhập
ngày càng sâu rộng vào nền kinh tế khu vực và thế giới.
Thành tựu của
hội nhập kinh tế quốc tế

Hội nhập kinh
tế quốc tế là chủ trương lớn của Đảng ta, là nội dung trọng tâm của hội nhập
quốc tế và là một bộ phận quan trọng, xuyên suốt của công cuộc đổi mới. Trong
30 năm đổi mới vừa qua, từ Đại hội VI đến Đại hội XII, Đảng ta đã đưa ra chủ
trương đúng đắn trong việc mở rộng hợp tác kinh tế quốc tế, nâng cao vị thế của
Việt Nam
trên trường quốc tế.
Trong đó, sự
kiện lớn nhất là việc Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) vào
tháng 01/2007, đánh dấu sự hội nhập toàn diện của Việt Nam vào kinh tế thế
giới. Với việc gia nhập WTO, Việt Nam đã tiến hành nhiều cải cách chính sách
kinh tế, thương mại, đầu tư đồng bộ theo hướng minh bạch và tự do hóa hơn, góp
phần quan trọng vào việc xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam.
Cùng với xu
hướng thiết lập các khu vực thương mại tự do trên thế giới, đến nay, Việt Nam
đã tham gia ký kết 12 hiệp định thương mại tự do (FTA) với 56 quốc gia và nền
kinh tế trên thế giới, trong đó 6 FTA do Việt Nam chủ động tham gia ngoài khuôn
khổ nội khối ASEAN hoặc với nước đối tác của ASEAN.
Tháng 10/2015,
Việt Nam
đã cùng các nước thành viên kết thúc đàm phán Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình
Dương (TPP). Việc tham gia vào TPP giúp Việt Nam nắm bắt và tận dụng tốt hơn
các cơ hội do quá trình hội nhập kinh tế khu vực đem lại, đồng thời có thêm
điều kiện, tranh thủ hợp tác quốc tế để phục vụ chiến lược phát triển kinh tế -
xã hội, triển khai chiến lược hội nhập quốc tế nói chung và chiến lược đối
ngoại ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương nói riêng.
Việt Nam cũng
đã chủ động, tích cực tham gia đàm phán Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện khu
vực (RCEP) nhằm đạt được một thỏa thuận kinh tế toàn diện, phù hợp với điều
kiện của Việt Nam và các nước ASEAN. Việt Nam đã chính thức gia nhập Cộng
đồng Kinh tế ASEAN (AEC). Với việc tích cực triển khai các biện pháp ưu tiên
nhằm thực hiện Kế hoạch tổng thể xây dựng AEC, Việt Nam được đánh giá là một trong
những quốc gia thành viên có tỷ lệ thực hiện cao nhất các biện pháp trong lộ
trình AEC…
Những hoạt
động kinh tế đối ngoại nói riêng và hội nhập kinh tế quốc tế nói chung góp phần
quan trọng vào phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, mở ra không gian phát
triển mới cho nền kinh tế Việt Nam, mở rộng quan hệ hợp tác sâu, rộng với các
quốc gia trong khu vực và thế giới, nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường
quốc tế. Đồng thời, tạo cơ hội để Việt Nam thực hiện chiến lược cơ cấu lại
thị trường xuất khẩu theo hướng cân bằng hơn, thúc đẩy cải cách và tái cơ cấu
nền kinh tế, tăng cường năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, của doanh nghiệp
(DN) .
Từ đó, tác
động mạnh đến sự tăng trưởng, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội,
nâng cao năng lực sản xuất, mở rộng thị trường trong một số lĩnh vực như: công
nghiệp, thương mại, các ngành dịch vụ…; Thúc đẩy tái cấu trúc nền kinh tế,
chuyển dịch cơ cấu sản xuất theo hướng tích cực, phù hợp với chủ trương công
nghiệp hóa theo hướng hiện đại, theo đó tập trung nhiều hơn vào các mặt hàng
chế biến, chế tạo có giá trị và hàm lượng công nghệ và giá trị gia tăng cao
hơn; Thúc đẩy thương mại, tăng thu hút đầu tư nước ngoài và mở rộng quan hệ hợp
tác phát triển.
Tạo hiệu ứng
tích cực thúc đẩy cải cách và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường đầy đủ,
hoàn thiện môi trường kinh doanh, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh cho nền
kinh tế nước ta trong dài hạn, tạo ra môi trường kinh doanh ngày càng bình
đẳng, minh bạch, dễ dự đoán hơn và ngày càng phù hợp với chuẩn mực và thông lệ
quốc tế. Các DN Việt Nam
có cơ hội tham gia chuỗi giá trị và mạng lưới sản xuất khu vực, chuyển dịch cơ
cấu sản xuất theo hướng tích cực, tập trung nhiều hơn vào các mặt hàng chế
biến, chế tạo có giá trị và hàm lượng công nghệ và giá trị gia tăng cao hơn…
Những khó
khăn, thách thức
Bên cạnh những
thành tựu to lớn đối với phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao vị thế quốc gia,
hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta vẫn còn một số hạn chế, như:
Một là, hệ
thống luật pháp chưa hoàn chỉnh, không đồng bộ gây khó khăn trong việc thực
hiện cam kết của các tổ chức kinh tế quốc tế. Chưa hình thành được một kế hoạch
tổng thể và dài hạn về hội nhập quốc tế và một lộ trình hợp lý cho việc thực
hiện các cam kết. Các hoạt động hội nhập kinh tế quốc tế và mở rộng quan hệ
trong các lĩnh vực khác chưa được triển khai đồng bộ, nhịp nhàng trong một
chiến lược tổng thế. Cơ chế chỉ đạo, điều hành, phối hợp thực hiện và giám sát
quá trình hội nhập từ Trung ương đến địa phương, giữa các ban, ngành còn nhiều
bất cập.
Hai là, chưa
có chiến lược rõ ràng, chủ động khi tham gia các Hiệp định FTA, chưa chuẩn bị
tốt các điều kiện cơ bản trong nước và chưa có được nỗ lực chung của toàn xã
hội để tận dụng tối đa các cơ hội mà tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế đem
lại. Các lợi ích quốc gia thu được từ tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế chưa
tương xứng với tiềm năng của đất nước.
Ba là, tăng
trưởng xuất khẩu nhanh nhưng chưa vững chắc, chất lượng tăng trưởng và hiệu quả
xuất khẩu còn thấp, cơ cấu hàng hóa xuất khẩu tuy đã chuyển dịch mạnh sang hàng
chế biến, chế tạo nhưng vẫn còn phụ thuộc nhiều vào DN có vốn đầu tư nước
ngoài; nhập siêu vẫn còn là nguy cơ, cơ cấu nhập khẩu còn không ít bất cập. Về
cơ bản, nền kinh tế vẫn dựa chủ yếu vào tăng trưởng thương mại, vào khai thức
tài nguyên, khoáng sản, xuất khẩu hàng nông sản thô với hàm lượng chế biến thấp
và gia công hàng hóa ở công đoạn thấp của chuỗi giá trị (dệt may, da giày, điện
tử…).
Bốn là, do tri
thức và trình độ kinh doanh của các DN còn thấp, cộng với hệ thống tài chính và
ngân hàng còn yếu kém nên dễ bị tổn thương và bị thao túng nếu tự do hoá thị
trường vốn sớm.
Năm là, năng
lực cạnh tranh của các DN Việt Nam nói riêng và nền kinh tế Việt Nam nói chung
còn thấp, chịu sức ép cạnh tranh lớn từ phía DN nước ngoài, dẫn đến một số
ngành trong nước bị ảnh hưởng do tác động của việc mở cửa thị trường, nhập khẩu
tăng mạnh. Sự cạnh tranh, đặc biệt là cả các sản phẩm công nghiệp còn thấp,
Việt Nam gặp nhiều khó khăn trong việc củng cố và phát triển các thị trường mới
trong điều kiện nhiều nước đang phát triển cùng chọn chiến lược tăng cường
hướng về xuất khẩu nên sẽ bị áp lực cạnh tranh ngay tại thị trường nội địa.
Sáu là, năng
suất lao động tăng chậm, thu hút đầu tư vẫn dựa vào lợi thế nhân công và chi
phí mặt bằng rẻ, chi phí năng lượng thấp đã ảnh hướng nhiều đến năng lực cạnh
tranh của nền kinh tế cũng như của DN. Hàng hoá nước ngoài chất lượng cao lại
được cắt giảm thuế, khiến cho hàng hoá của các DN bị cạnh tranh gay gắt...
Một số đề
xuất, kiến nghị
Tình hình thế
giới và khu vực còn nhiều diễn biến phức tạp, quá trình toàn cầu hóa và hội
nhập quốc tế tiếp tục được đẩy mạnh. Các quốc gia tham gia ngày càng sâu vào
mạng sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu. Xuất hiện nhiều hình thức liên kết
kinh tế mới, các định chế tài chính quốc tế, khu vực, các hiệp định song
phương, đa phương thế hệ mới. Trong khi đó, Việt Nam sẽ phải thực hiện đầy đủ
các cam kết trong AEC và WTO, tham gia các hiệp định thương mại tự do thế hệ
mới, hội nhập quốc tế với tầm mức sâu rộng hơn rất nhiều so với giai đoạn
trước.
Trong giai
đoạn mới đòi hỏi, phải chủ động và tích cực hơn nữa trong việc tận dụng các cơ
hội của hội nhập kinh tế quốc tế mang lại, vuợt qua các khó khăn thách thức,
giảm thiểu các tác động tiêu cực của quá trình hội nhập, trong đó tập trung một
số giải pháp trọng tâm sau:
Một là, cần
quán triệt chủ trương đúng đắn của Đảng, sự chỉ đạo, điều hành của Chính phủ
trong từng giai đoạn về hội nhập quốc tế, xác định vai trò trọng tâm của hội
nhập kinh tế quốc tế. Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế cần có sự thống nhất
về quan điểm, nhận thức và hành động, nhất là cần xây dựng các căn cứ khoa học
và thực tiễn để phục vụ tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Hai là, cần
xây dựng tầm nhìn dài hạn về các mục tiêu kinh tế, ngoại giao trong chiến lược
phát triển kinh tế - xã hội trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế. Chú
trọng hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách nhằm thực thi có hiệu
quả các cam kết hội nhập, tạo môi trường kinh doanh ngày càng phù hợp với chuẩn
mực và thông lệ quốc tế, góp phần hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, đảm bảo quá trình hội nhập chủ động, thích ứng nhanh
với những thay đổi nhanh trong quan hệ kinh tế quốc tế và khu vực.
Ba là, gắn kết
giữa hội nhập kinh tế quốc tế với đẩy mạnh cải cách trong nước, chuyển đổi mô hình
tăng trưởng và tái cấu trúc nền kinh tế trong tổng thể phát triển kinh tế - xã
hội đất nước nhằm bảo đảm tầm nhìn dài hạn về các mục tiêu phát triển kinh tế,
chính trị ngoại giao và chiến lược hội nhập kinh tế quốc tế.
Bốn là, tiếp
tục xây dựng phương án, tham gia đàm phán và chủ động tham vấn với các bộ,
ngành, hiệp hội, địa phương về các lĩnh vực, mở cửa thị trường hàng hóa tại
Việt Nam trong các FTA đang và sẽ đàm phán như Hiệp định RCEP, FTA Việt Nam -
EFTA, ASEAN - Hồng Kông, Việt Nam - Israel... góp phần mở rộng thêm quá trình
hội nhập của Việt Nam. Tận dụng tối đa các cơ hội của hội nhập kinh tế quốc tế
mở rộng thị trường, thúc đẩy thương mại, đầu tư, tăng trưởng và phát triển kinh
tế - xã hội; tạo động lực thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cải thiện môi
trường đầu tư kinh doanh nhằm nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh
tế, DN và sản phẩm.
Năm là, chú
trọng thực thi cam kết hội nhập kinh tế quốc tế trong bối cảnh mức độ cam kết
và tự do hóa thương mại ngày càng cao hơn, có các điều chỉnh thương mại trên cơ
sở cam kết với các tổ chức quốc tế và khu vực để đạt được hiệu quả cao nhất
trong việc thực hiện các cam kết thương mại. Bên cạnh đó, tập trung nguồn lực
để tiếp tục theo dõi, nghiên cứu và đánh giá tác động của việc thực hiện các
cam kết cắt giảm thuế trong các FTA đến thu ngân sách và tác động đến một số
ngành hàng quan trọng, từ đó kịp thời kiến nghị điều chỉnh các chính sách liên
quan.
Sáu là, nâng
cao năng lực nghiên cứu, đánh giá và dự báo các vấn đề mới, các xu thế vận động
của hội nhập, đặc biệt trong việc thực hiện các cam kết thương mại, các FTA ở
cấp độ cao hơn để có các điều chỉnh chính sách và biện pháp phù hợp; hoàn thiện
hệ thống quản lý, điều hành thị trường đủ năng lực, hoạt động hiệu quả để bảo
vệ trị trường trong nước, duy trì môi trường cạnh tranh lành mạnh, gắn với bảo
vệ môi trường.
Bảy là, tăng
cường chất lượng nguồn nhân lực trong lĩnh vực hội nhập kinh tế quốc tế nhằm
xây dựng đội ngũ người lao động có kỹ năng và tay nghề để tham gia vào chuỗi
giá trị sản xuất toàn cầu có mức giá trị gia tăng cao hơn thay thế cho lợi thế
nhân công giá rẻ như hiện nay. Phát triển mạnh hệ thống đào tạo nghề và phát
triển nguồn nhân lực chất lượng cao phù hợp với nhu cầu thị trường, tạo điều
kiện thuận lợi cho việc chuyển dịch lao động theo cung cầu của thị trường lao
động...
Theo Tạp chí
Tài chính