Những yêu sách nói trên vừa thể hiện tư tưởng về một bản Hiến pháp mà nội dung là “sắp đặt một nền Hiến pháp về phương diện chính trị và xã hội theo như những lý tưởng dân quyền (lý tưởng người dân làm chủ), vừa là phương tiện “bảo đảm về mặt pháp lý” để nhân dân được hưởng quyền như người châu Âu. Nhất quán với những tư tưởng đó, một ngày sau khi đọc Tuyên ngôn Ðộc lập, trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ (ngày 3-9-1945), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đưa ra sáu nhiệm vụ cấp bách của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Trong đó, nhiệm vụ thứ ba là: “Trước chúng ta đã bị chế độ quân chủ chuyên chế cai trị, rồi đến chế độ thực dân không kém phần chuyên chế, nên nước ta không có hiến pháp. Nhân dân ta không được hưởng quyền tự do dân chủ. Chúng ta phải có một hiến pháp dân chủ”(5).
“Hiến pháp dân chủ” trong tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh còn đòi hỏi dân chủ phải là điều kiện để cho sự ra đời của một bản Hiến pháp. Các yếu tố độc lập, có chủ quyền nói ở phần trên là các điều kiện cần nhưng chưa đủ để có một hiến pháp dân chủ. Ðiều kiện đủ để có một “hiến pháp dân chủ” đó chính là một chế độ dân chủ. Vì thế, trong Tuyên ngôn Ðộc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Vua Bảo Ðại thoái vị... Dân ta lại đánh đổ chế độ quân chủ mấy mươi thế kỷ mà lập nên chế độ Dân chủ Cộng hòa”(6). Nhờ chế độ dân chủ cộng hòa mà có điều kiện cho sự ra đời của một bản hiến pháp dân chủ.
Tóm lại, Hiến pháp và dân chủ trong tư tưởng pháp quyền của Chủ tịch Hồ Chí Minh là hai yếu tố không tách rời nhau. “Hiến pháp dân chủ” phải là một bản hiến pháp do nhân dân làm chủ có nội dung và cách thức ban hành dân chủ. Ðồng thời là phương tiện để cho nhân dân được hưởng quyền tự do, dân chủ. Ngược lại, dân chủ là điều kiện cần và đủ cho một bản “hiến pháp dân chủ” ra đời, tồn tại và phát huy giá trị.
Ba là, Hiến pháp là phương tiện tổ chức và thực hiện chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân.
Sức mạnh “thần linh pháp quyền” chính là sức mạnh của Hiến pháp. Sức mạnh đó trước hết là sức mạnh của tổ chức quyền lực nhà nước bằng Hiến pháp và tuân thủ Hiến pháp. Bởi theo quan niệm của Người: “Tất cả quyền bính trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam, không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo” . Vì thế, nhân dân là chủ thể tối cao của quyền lực nhà nước cũng tức là chủ thể tối cao của quyền lập hiến. Thông qua quyền này, nhân dân giao quyền, nhân dân ủy quyền quyền lực nhà nước của mình cho các cơ quan nhà nước. Bằng phương thức đó mà tổ chức quyền lực nhà nước mang sức mạnh của nhân dân; làm cho quyền lực nhà nước được hình thành một cách chính thức, cầm quyền một cách chính đáng và buộc quyền lực nhà nước phải tổ chức và hoạt động trong giới hạn Hiến pháp cho phép. Đây chính là cơ sở chính trị - pháp lý cao nhất để nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước và buộc nhà nước phải chịu sự kiểm soát của nhân dân mà cụ thể là cán bộ, công chức nhà nước phải hoạt động trong giới hạn của Hiến pháp và pháp luật cho phép và phải chịu sự kiểm soát việc thực thi quyền lực nhà nước mà nhân dân giao cho. Chính vì thế, với tư cách là Trưởng ban khởi thảo Hiến pháp năm 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trương “Thực hiện chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân” bằng quy định, thành nguyên tắc và nội dung cơ bản của Hiến pháp, như Lời nói đầu của Hiến pháp năm 1946 đã khẳng định.
Bốn là, cần phải có Hiến pháp để nhân dân được hưởng quyền tự do, dân chủ.
Tư tưởng về quyền con người, quyền công dân có mối quan hệ mật thiết không tách rời với một bản Hiến pháp dân chủ ra đời từ nhận thức sâu sắc của Nguyễn Ái Quốc về thân phận của người dân sống trong nhà nước quân chủ chuyên chế và trong nhà nước thực dân xâm lược. Ở đó, không có Hiến pháp nên không có hiến định về quyền con người, quyền công dân, không có các định chế về Hiến pháp, về tổ chức quyền lực nhà nước để ràng buộc và đề cao trách nhiệm của nhà nước trong mối quan hệ với việc thực thi quyền con người, quyền công dân. Ðồng thời, xuất phát từ đạo lý được thừa nhận chung, như một giá trị tiến bộ của nhân loại là: “Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được, trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”, Chủ tịch
Hồ Chí Minh trong Tuyên ngôn Ðộc lập - nền móng của Hiến pháp năm 1946 đã rút ra kết luận khoa học rằng: “Suy rộng ra, câu ấy có ý nghĩa là: Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng; dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”(7). Như vậy, quyền con người theo Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ là quyền của cá nhân con người như trong Tuyên ngôn Ðộc lập của nước Mỹ, mà còn là quyền độc lập, quyền tự quyết của một dân tộc. Tư tưởng vĩ đại của Hồ Chí Minh về quyền con người được thể hiện thành nguyên tắc “đảm bảo các quyền tự do dân chủ”(8) và Chương II: “Nghĩa vụ và quyền lợi công dân” trong Hiến pháp năm 1946. Đúng như phát biểu của Chủ tịch Hồ Chí Minh tại phiên bế mạc kỳ họp thứ hai Quốc hội khóa I, ngày 9-11-1946: “Hơn 10 ngày nay, các đại biểu đã khó nhọc làm việc. Quốc hội đã thu được kết quả làm vẻ vang cho đất nước là đã thảo luận xong bản Hiến pháp. Sau khi nước nhà được tự do 14 tháng, đã làm thành bản Hiến pháp đầu tiên trong lịch sử nước nhà. Bản Hiến pháp đó còn là một vết tích lịch sử, Hiến pháp đầu tiên trong cõi Á Đông này nữa. Bản Hiến pháp đó chưa hoàn toàn nhưng nó đã làm nên theo một hoàn cảnh thực tế. Hiến pháp đó tuyên bố với thế giới nước Việt Nam đã độc lập. Hiến pháp đó tuyên bố với thế giới biết dân tộc Việt Nam đã có đủ mọi quyền tự do. Hiến pháp đó tuyên bố với thế giới: phụ nữ Việt Nam đã được đứng ngang hàng với đàn ông để được hưởng chung mọi quyền tự do của một công dân. Hiến pháp đó đã nêu một tinh thần đoàn kết chặt chẽ giữa các dân tộc Việt Nam và một tinh thần liêm khiết, công bình của các giai cấp”(9).
Năm là, Hiến pháp - phương tiện phân công, phân nhiệm quyền lực nhà nước thành các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp và góp phần kiểm soát quyền lực nhà nước.
Có thể nói Hiến pháp năm 1946 do Chủ tịch Hồ Chí Minh làm Trưởng ban soạn thảo đã vận dụng học thuyết phân quyền về phương diện kỹ thuật một cách sáng tạo và độc đáo phù hợp với đặc thù và tương quan lực lượng trong cuộc đấu tranh giành và giữ chính quyền nhà nước non trẻ lúc bấy giờ. Ngày nay, xem xét dưới phương diện kiểm soát quyền lực nhà nước có thể rút ra được rất nhiều điều bổ ích về việc hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước trong điều kiện mới - xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Theo Hiến pháp năm 1946, quyền lực nhà nước được tổ chức thành ba quyền, gồm: “Nghị viện nhân dân (lập pháp) là cơ quan có quyền cao nhất... do công dân Việt Nam bầu ra. Ba năm bầu một lần” (Điều 22, Điều 24), có nhiệm vụ: “giải quyết mọi vấn đề chung cho toàn quốc, đặt ra các pháp luật, biểu quyết ngân sách, chuẩn y các hiệp ước mà Chính phủ ký với nước ngoài” (Điều 23); “Chính phủ là cơ quan hành chính cao nhất của toàn quốc” (Điều 43), có nhiệm vụ trực tiếp quản lý các lĩnh vực của đời sống xã hội trong cả nước (Điều 52), “Tòa án là cơ quan tư pháp của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa” (Điều 63), có nhiệm vụ xét xử. Đặc biệt chế định Chủ tịch nước vừa là người đứng đầu nhà nước (nguyên thủ quốc gia), vừa là người đứng đầu Chính phủ (hành pháp) được Hiến pháp giao nhiệm vụ và quyền hạn rất lớn: “có quyền yêu cầu Nghị viện thảo luận lại luật của Nghị viện. Những luật đã được Nghị viện biểu quyết Chủ tịch nước Việt Nam phải ban bố chậm nhất là mười hôm sau khi nhận được thông tri” (Điều 31) và “Chủ tịch nước Việt Nam không phải chịu trách nhiệm nào, trừ khi phạm tội phản quốc” (Điều 50). Ngược lại, “Khi Nghị viện không họp, Ban thường vụ có quyền:... kiểm soát và phê bình Chính phủ” (khoản c, Điều 36); “Mỗi khi truy tố Chủ tịch, Phó Chủ tịch hay một nhân viên Nội các về tội phản quốc, Nghị viện sẽ lập ra một tòa án đặc biệt để xét xử” (Điều 51). Đây chính là chế định pháp lý hiến định góp phần kiểm soát quyền lực nhà nước.
Nghiên cứu các quy định của Hiến pháp năm 1946 có thể thấy, Hiến pháp không quy định nguyên tắc phân quyền, nhưng việc phân công quyền lực nhà nước rất rõ ràng, minh bạch, Chủ tịch nước có quyền phủ quyết tương đối (yêu cầu thảo luận lại luật trong vòng 10 ngày) và được miễn trừ trách nhiệm nhưng Nghị viện có quyền bất tín nhiệm đối với nội các, truy tố Chủ tịch nước, Phó Chủ tịch nước hay nhân viên nội các về tội phản quốc. Các quy định này góp phần định hình cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước.
Ngoài cơ chế kiểm soát giữa các quyền; thanh tra, kiểm tra, tự phê bình và phê bình là các phương thức kiểm soát quyền lực nhà nước được Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt chú ý. Người nói: “Có kiểm tra mới huy động được tinh thần tích cực và lực lượng to tát của nhân dân, mới biết rõ năng lực và khuyết điểm của cán bộ, mới sửa chữa và giúp đỡ kịp thời”(10). Chủ tịch Hồ Chí Minh còn đề cập đến vai trò của cơ quan chuyên trách của Nhà nước trong việc kiểm soát quyền lực nhà nước. Đó là các ban thanh tra trong bộ máy nhà nước. Đồng thời, Người còn nhấn mạnh tính độc lập của các cơ quan này. Ngay trong Sắc lệnh số 64/SL, ngày 23-11-1945, đã quy định rất rõ quyền hạn của Ban thanh tra đặc biệt trong việc “đình chức, bắt giam bất cứ nhân viên nào trong Ủy ban nhân dân hay Chính phủ đã phạm tội” và “sẽ thiết lập ngay tại Hà Nội một Tòa án đặc biệt để xử những nhân viên của các Ủy ban nhân dân hay các cơ quan Chính phủ do Ban thanh tra truy tố”. Những quy định trong Sắc lệnh số 64/SL ngay sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, chính quyền non trẻ mới ra đời có mấy tháng thể hiện sâu sắc quan điểm xây dựng một bộ máy nhà nước kiểu mới trong sạch, một lòng, một dạ phục vụ nhân dân.
Kế thừa và phát triển các giá trị pháp quyền của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân